Các nước ASEAN đang đẩy nhanh hợp tác quốc tế trên biển, trên nhiều lĩnh vực khác nhau như hợp tác quốc tế về phân định biển, giao lưu trao đổi, chia sẻ thông tin, hợp tác chống cướp biển và cướp có vũ trang chống lại tàu thuyền trên biển… trong đó vấn đề đang được dư luận quan tâm hiện nay là việc hợp tác khai thác chung nguồn tài nguyên và phân định trên vùng biển chồng lấnở Biển Đông.
Các quốc gia trong khu vực Biển Đông. Nguồn: Enternews
Hợp tác khai thác chung theo đúng quy định của UNCLOS
Hợp tác khai thác chung chỉ có thể được tiến hành trên vùng biển có sự chồng lấn thực theo quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS). Biển Đông vừa là nơi có lợi ích chung, vừa là nơi có vùng biển đảo thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán riêng của các quốc gia trong khu vực. Chính vì vậy, việc tăng cường khả năng hợp tác cùng phát triển trên một số lĩnh vực ít nhạy cảm ở vùng biển có sự chồng lấn thực sự chiếu theo quy định của UNCLOS là nhu cầu cấp thiết đối với các bên liên quan. Thông qua biện pháp hợp tác cùng nhau khai thác nguồn tài nguyên biển sẽ góp phần gìn giữ môi trường hòa bình và ổn định ở Biển Đông. Tuy nhiên để tăng cường biện pháp xây dựng lòng tin, các bên cần xác định rõ việc khai thác chung chỉ diễn ra ở vùng biển có sự chồng lấn thực sự, mà ở đó các bên chưa ký kết hiệp định về phân định biển. Việc phân định chính xác quyền sở hữu và xác định quy chế pháp lý vùng biển của các cấu trúc địa lý như đảo đá, bãi chìm, bãi cạn và các nguồn tài nguyên duới đáy biển trên cơ sở của UNCLOS là vấn đề cấp thiết. Thực tiễn cho thấy, cần phải có những giải pháp chung mang tính chia sẻ và có sự đồng thuận cao giữa các quốc gia hữu quan, đây được xem là cơ sở hình thành quan điểm hợp tác khai thác chung ở Biển Đông trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng để góp phần gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định. Từ kinh nghiệm lịch sử, mô hình hợp tác khai thác chung diễn ra ở nhiều khu vực khác nhau trên thế giới trong khi vấn đề chủ quyền chưa được giải quyết dứt điểm. Do đó, khai thác chung không phải là ý tưởng mới trong xử lý các tranh chấp biển hiện nay.
Trên thực tế, vùng biển giáp ranh giữa Việt Nam và Malaysia tồn tại một vùng biển chồng lấn trên thềm lục địa của hai nước rộng khoảng 2.800 km2. Khu vực này nằm ở cửa vịnh Thái Lan có độ sâu thấp, trung bình khoảng 50 m, địa hình đáy biển tương đối bằng phẳng. Hai nước Việt Nam và Malaysia đều là thành viên của UNCLOS, cho nên nguyên tắc chung để giải quyết phân định thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế là nguyên tắc công bằng đã được ghi nhận trong các Điều 74 và Điều 83 của UNCLOS. Trước yêu cầu của thực tế, hai bên đã tuần tự đàm phán, thu hẹp những bất đồng, nhằm tìm ra giải pháp công bằng mà hai bên có thể chấp nhận. Do đều là thành viên của UNCLOS, Việt Nam và Malaysia chấp nhận áp dụng các nguyên tắc của luật pháp quốc tế và UNCLOS để giải quyết phân định biển. Đầu năm 1992, trong chuyến thăm Malaysia của Thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt, một thoả thuận về tiến hành đàm phán phân định thềm lục địa giữa hai nước đã được thông qua.
Trên cơ sở thoả thuận đó, tại Kuala Lumpur, vòng đàm phán đầu tiên giữa hai nước Việt Nam và Malaysia (6/1992) đã diễn ra và thành công tốt đẹp. Trên cơ sở nội dung của vòng đàm phán đầu tiên đó, hai nước đã từng bước nhất trí thỏa thuận áp dụng nguyên tắc dàn xếp tạm thời được quy định trong Điều 74 và Điều 83 của UNCLOS, đó là ranh giới được vạch ra và ghi rõ trên hải đồ có tỷ lệ thích hợp để xác định vị trí của nó, có trường hợp việc vẽ ranh giới ngoài hay các đường hoạch định này có thể được thay thế bằng các bản kê các tọa độ địa lý các điểm. Trên cơ sở đó hai bên nhanh chóng đi đến thỏa thuận áp dụng mô hình khai thác chung cho vùng xác định trên tinh thần hiểu biết và hợp tác.Ngày 05/6/1992, hai nước đã chính thức ký Bản ghi nhớ quy định phạm vi vùng xác định, và hai bên phải cử đại diện của mình để tiến hành các hoạt động thăm dò và khai thác trong vùng xác định và sự hợp tác khai thác đó không làm phương hại đến kết quả hoạch định phân định biển cuối cùng giữa hai nước.
Việc ký kết Bản ghi nhớ ngày 05/6/1992 cho thấy Việt Nam luôn là nước đi đầu trong việc áp dụng các quy định của các Điều 74 và Điều 83 của UNCLOS, không chỉ trong phân định biển mà cả trong các biện pháp phát triển chung nguồn tài nguyên biển trong vùng biển chồng lấn. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, Bản ghi nhớ cũng không giải quyết triệt để được vấn đề phân định biển giữa hai nước Việt Nam và Malaysia. Thực tế cho thấy, hai bên cần phải tiếp tục đàm phán hòa bình và dựa trên nội dung của UNCLOS và Bản ghi nhớ để phân định thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế. Để thực hiện nội dung của Bản ghi nhớ, Việt Nam đã cử Petro Vietnam, Malaysia cử Petronas hợp tác khai thác nguồn dầu khí ở vùng xác định. Ngày 29/7/1997, tấn dầu đầu tiên đã được khai thác tại mỏ Bunga kekwa và sự kiện này đã đánh dấu thành công lớn cho cả hai bên trong quản lý, hợp tác khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng như đóng góp kinh nghiệm quý báu để giải quyết các tranh chấp khác. Do khoảng cách giữa bờ biển và các đảo của hai bên chưa tới 400 hải lý, nằm trên một thềm lục địa thuần nhất và hơn nữa yêu sách của hai bên đều dựa trên đường trung tuyến, tức là dựa trên tiêu chuẩn khoảng cách bờ biển của hai quốc gia, cho nên hai nước có thể sử dụng một đường phân định đơn nhất làm ranh giới cho cả vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của hai nước.
Hợp tác khai thác chung được xem là một thỏa thuận giữa các quốc gia liên quan, nhằm chia sẻ nguồn tài nguyên trên các vùng biển chồng lấn. Cơ sở của các thỏa thuận này chính là những quy định của luật pháp quốc tế, luật biển quốc tế, nhất là quy định của UNCLOS. Xét trên phương diện luật, UNCLOS yêu cầu các nước liên quan tiến hành đàm phán về các dàn xếp tạm thời trong khi chờ đàm phán để ký hiệp định cuối cùng về việc phân định ranh giới biển. Dàn xếp tạm thời có thể bao gồm các thỏa thuận cùng nhau khai thác thủy sản hoặc cùng nhau thỏa thuận khai thác các nguồn tài nguyên biển khác như dầu mỏ và khí đốt. Về phương diện chính trị, thỏa thuận tạm thời về khai thác chung được xem là giải pháp tạm thời nhằm giảm nguy cơ xung đột giữa các bên tranh chấp và chỉ nhằm mục đích khai thác nguồn tài nguyên biển và biện pháp này cũng không làm ảnh hưởng đến chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên biển. Như vậy, hợp tác khai thác chung giữa các quốc gia ASEAN được triển khai thực hiện thường xuyên và có hiệu quả sẽ góp phần làm giảm nguy cơ gây bất ổn và đảm bảo môi trường hòa bình và tự do hàng hải ở Biển Đông. Tại những cuộc hội thảo quốc tế về Biển Đông đã có nhiều đề nghị áp dụng phương án hợp tác khai thác chung trên vùng biển chồng lấn, nhưng trên thực tế việc triển khai mô hình này không phải lúc nào cũng dễ dàng.
Để đi đến việc ký kết các thỏa thuận hợp tác khai thác chung ở Biển Đông, các bên liên quan cần thống nhất và xác định được vùng tranh chấp tức vùng chồng lấn. Chỉ khi xác định được vùng chồng lấn như vậy thì mới có thể nói tới biện pháp hợp pháp tức là khai thác chung. Tuy nhiên, do mỗi nước đều có những quan điểm, lập trường khác nhau khiến việc xác định được vùng chồng lấn là vô cùng phức tạp. Đặc biệt là việc Trung Quốc vẫn giữ nguyên cái tuyên bố về chủ quyền theo “đường lưỡi bò” mà không hề đưa ra bất kỳ một vị trí tọa độ cũng không hề đưa ra bất kỳ cơ sở pháp lý nào khiến những đề xuất hợp tác khai thác chung rơi vào bế tắc. Ngoài ra, Trung Quốc vẫn cố tình lồng ghép, sử dụng câu chữ khi tuyên truyền về “gác lại tranh chấp, cùng khai thác” và giữ nguyên lập trường cho rằng “Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi ở Biển Đông”.
Vấn đề hiện nay trong hợp tác phân định biển giữa các nước
Phân định biển là nội dung quan trọng trong chính sách của các quốc gia ven biển, quốc gia quần đảo, đảo trên thế giới và khu vực. Phân định biển giữa các quốc gia có vùng biển tiếp giáp nhau là nhằm tạo ra đường biên giới trên biển rõ ràng, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để quản lý và phát triển các lĩnh vực kinh tế biển. Trong thực tế, tại khu vực Biển Đông, đã có nhiều hiệp định phân định biển được ký kết trên tinh thần hòa bình, ổn định, hợp tác khai thác chung giữa các quốc gia liên quan. Việt Nam đã tiến hành đàm phán phân định biển với hầu hết các nước láng giềng có chung biên giới biển, có thể kể tới Hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam với Trung Quốc năm 2000, Hiệp định hợp tác nghề cá ở vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam với Trung Quốc năm 2000, Hiệp định phân định biển giữa Việt Nam với Thái Lan trong vịnh Thái Lan năm 1997, Hiệp định về vùng nước lịch sử giữa Việt Nam và Campuchia năm 1982, Hiệp định phân định thềm lục địa giữa Việt Nam và Indonesia năm 2003. Hiện nay Việt Nam và Indonesia đang đẩy nhanh tiến độ đàm phán phân định ranh giới vùng đặc quyền kinh tế giữa hai nước. Tuy nhiên, vấn đề phân định biển không phải ở khu vực nào cũng có thể tiến hành một cách dễ dàng được, bởi vì khó khăn nhất là ở vấn đề đàm phán giải quyết về tranh chấp chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán trên các vùng đảo vì do quan điểm của chủ quyền của các bên còn quá xa nhau.
Tháng 12/2016, Quốc hội Indonesia (DPR) đã phê chuẩn hiệp định phân định biển giữa Indonesia và Singapore, theo đó ranh giới trên biển giữa hai nước được xác định ở phía Đông eo biển Singapore. Hiệp định này xác định đường biên giới trải dài 9,45 km giữa Changi của Singapore và đảo Batam của Indonesia. Sự phê chuẩn này diễn ra sau 27 tháng kể từ khi hiệp định biên giới trên biển giữa hai nước được ký kết vào tháng 9/2014. Đáng chú ý, trong kỳ họp Quốc hội kéo dài 1 tháng, DPR chỉ phê chuẩn 2 dự luật, trong đó có hiệp định với Singapore, trong khi trì hoãn tới 40 dự luật khác. Indonesia coi việc phê chuẩn Hiệp định trên có tầm quan trọng đặc biệt bởi nó giúp phân định ranh giới trên biển nhằm mục đích bảo vệ chủ quyền và bảo tồn sự toàn vẹn lãnh thổ của mình. Hiện nay, Indonesia đã giải quyết tất cả các ranh giới hàng hải song phương với Singapore, ngoại trừ ranh giới giữa đảo Bintan của Indonesia và đảo Pedra Branca của Singapore. Singapore cần phải đàm phán phân định ranh giới vùng biển của đảo Pedra Branca với Malaysia sau khi đào nảy được Tòa trọng tài công lý quốc tế tuyên bố là thuộc chủ quyền của Singapore (5/2008). Hiệp định vừa được phê chuẩn là hiệp định trên biển thứ ba giữa Singapore và Indonesia.
Vào tháng 5/1973, dưới thời của Chính quyền của Tổng thống Suharto và Thủ tướng Lý Quang Diệu, hai nước đã ký Hiệp định phân định biên giới trên biển dọc theo phần trung tâm của eo biển Singapore. Hiệp định này được Indonesia phê chuẩn vào tháng 12/1973, Singapore phê chuẩn vào tháng 8/1974. Tiếp đó vào tháng 3/2009, hiệp định phân định biên giới thứ hai tại phía Tây của eo biển Singapore, bao gồm vùng biển trải dài giữa bãi Sultan của Singapore và vùng biển Pulau Nipa của Indonesia. Hiệp định thứ hai này được cả hai bên phê chuẩn vào tháng 8/2010. Mối quan hệ cá nhân tốt đẹp giữa Thủ tướng Lý Hiển Long và Tổng thống Susilo Bambang Yudhoyono và sau đó là Tổng thống Jokowi Widodo đã giúp cho hai nước nhanh chóng phê chuẩn Hiệp định phân định biên giới thứ 3. Hiệp định này được phê chuẩn chỉ một tháng sau khi hai nhà lãnh đạo có cuộc gặp hẹp đầu tiên vào tháng 11/2016. Sự dễ dàng và nhanh chóng trong việc phê chuẩn của Indonesia cũng có thể là nhờ sự ủng hộ về chính trị trong nước. Chủ nghĩa dân tộc bùng phát trong xã hội Indonesia đòi hỏi chính phủ nước này phải đảm bảo Indonesia có đường biên giới xác định rõ ràng để bảo vệ chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ. Với hiệp định này, Indonesia có thể có điều kiện tốt hơn để quản lý và bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Tháng 5/2014, tại Malacanang – Phủ Tổng thống Philippines, Bộ trưởng Ngoại giao nước chủ nhà Albert del Rosario và người đồng cấp Indonesia Marty Natalegawa đã ký Hiệp định về phân định ranh giới vùng đặc quyền kinh tế giữa Cộng hoà Philippines và Cộng hoà Indonesia trên vùng biển Mindanao và Celebes trước sự chứng kiến của Tổng thống hai nước. Lễ ký trên diễn ra trong khuôn khổ chuyến thăm cấp nhà nước tới Philippines, đồng thời để tham dự Hội nghị cấp cao Đông Á và Diễn đàn kinh tế thế giới của Tổng thống Indonesia Susilo Bambang Yudhoyono.
Tổng thống Indonesia Joko Widodo và Thủ tướng Malaysia Najib Razak đã nhất trí đẩy nhanh việc hoàn thành việc phân định biên giới biển giữa hai nước. Đây là một trong những điểm chính của thỏa thuận giữa Indonesia và Malaysia trong các cuộc họp song phương giữa lãnh đạo hai nước tại Putra Jaya, Malaysia ngày 6/2/2015. Cuộc đàm phán kỹ thuật đường biên giới biển giữa Indonesia và Malaysia đã được tổ chức từ ngày 24 đến ngày 26/2/2015. Ngoài ra, để tạo động lực sớm hoàn thành các cuộc đàm phán, Tổng thống Jokowi và Thủ tướng Najib đã đồng ý bổ nhiệm Trưởng đoàn đàm phán của hai nước. Bên cạnh đó, hai nước cũng nhất trí tiến tới hoàn thành các tiêu chuẩn của các thủ tục trong việc xử lý đối với các ngư dân trong vùng biển vẫn còn chồng chéo. Đối với lao động nhập cư Indonesia, hai nhà lãnh đạo nhất trí tăng cường các nỗ lực bảo vệ lao động nhập cư tốt hơn, trong đó có việc tăng cường cung cấp lao động thông qua thủ tục hợp pháp. Hai nhà lãnh đạo đã thể hiện quyết tâm tiếp tục tối ưu hóa tiềm năng hợp tác kinh tế giữa hai nước, bao gồm cả thương mại và đầu tư. Tổng thống Jokowi đã mời các doanh nhân Malaysia đầu tư vào Indonesia, đặc biệt là cơ sở hạ tầng, như đường cao tốc, nhà máy điện, đường sắt và cảng biển.