Đông Nam Á luôn là đấu trường cho các cuộc cạnh tranh nước lớn. Trong khoảng một thập kỷ qua, quan hệ Mỹ-Trung đã và đang là trục cạnh tranh chính, và thách thức cơ bản đối với ASEAN là khối này phải xác định cho mình lập trường như thế nào khi Mỹ và Trung Quốc dò tìm một tạm ước mới. Đây vẫn là thách thức chính. Nhưng ASEAN không nên tự dối mình rằng đó chỉ là một công việc như bình thường. Quan hệ Mỹ-Trung đã bước vào một giai đoạn mới của sự cạnh tranh cao độ trong dài hạn. Đây chính là tình hình mới.
Sự cạnh tranh vẫn luôn là một phần cố hữu trong quan hệ Mỹ-Trung. Nhưng từ năm 1972 đến khoảng năm 2010, mặc dù đã có những giai đoạn căng thẳng, song quan hệ Mỹ-Trung nhìn chung vẫn nhấn mạnh sự can dự. Mỹ và Trung Quốc không phải là đối tác tự nhiên, cũng không phải là kẻ thù không thể tránh khỏi. Đặc trưng của quan hệ Mỹ-Trung hậu Chiến tranh Lạnh là giữa họ cùng lúc tồn tại cả sự mất lòng tin chiến lược sâu sắc lẫn sự phụ thuộc lẫn nhau theo kiểu mới, chưa từng có trong lịch sử. Mỹ và Trung Quốc vừa hợp tác, vừa cạnh tranh. Sự can dự và hợp tác sẽ không hoàn toàn chấm dứt trong tình hình mới. Nhưng nó sẽ có tính chọn lọc hơn nhiều, và giờ đây trọng tâm chung rõ ràng đã chuyển sang sự cạnh tranh. Không còn nghi ngờ gì nữa, bài phát biểu của Phó Tổng thống Pence vào ngày 4/10/2018 là tín hiệu dễ hiểu và rõ ràng về cách tiếp cận mới.
Biểu hiện dễ thấy nhất của cách tiếp cận mới này là “cuộc chiến thương mại” của Trump. Ở chừng mực nào đó, thuật ngữ này đã bị dùng sai. Thương mại là công cụ; còn mục tiêu, như Chiến lược an ninh quốc gia được công bố vào tháng 12/2017 và Chiến lược quốc phòng được công bố vào tháng 1/2018 của Chính quyền Trump đã làm rõ, là sự cạnh tranh chiến lược. Trung Quốc cáo buộc Mỹ sử dụng thương mại để cản trở và kìm hãm sự phát triển của mình. Trung Quốc không sai, mặc dù họ né tránh trách nhiệm của chính mình theo cách thuận tiện cho họ.
Hầu hết sự chú ý đều tập trung vào việc áp thuế quan trả đũa. Điều này cuối cùng cũng phải chấm dứt, mặc dù hiện giờ không ai có thể dự đoán được là vào lúc nào, với phí tổn gì, hay có những tác động như thế nào đối với trật tự quốc tế. Cả hai bên đều phát đi tín hiệu rằng họ sẵn sàng thảo luận và Trump đã gặp Tập Cận Bình bên lề hội nghị G20 tại Argentina vào cuối tháng 11/2018. Không rõ liệu họ có thể đi tới một thỏa thuận hay không. Trong bất kỳ trường hợp nào, bất kỳ thỏa thuận nào – nếu có – thì đó cũng là về thuế quan, nhưng phương diện quan trọng hơn của cuộc chiến thương mại là những điều luật mới của Mỹ nhằm hạn chế chuyển giao công nghệ cho Trung Quốc: Đạo luật về hiện đại hóa đánh giá rủi ro đầu tư nước ngoài (FIRRMA) và Đạo luật phê chuẩn ngân sách quốc phòng đã được thông qua với sự ủng hộ mạnh mẽ của cả hai đảng vào tháng 8/2018. FIRRMA – và các điều luật khác đang được thảo luận – xác định khuôn khổ luật pháp mới cho quan hệ của Mỹ với Trung Quốc. Không có bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy Chính quyền Trump có khuynh hướng thay đổi cách tiếp cận; và các chính quyền kế nhiệm cũng sẽ không dễ dàng thay đổi các điều luật mới này.
Đây không chỉ là vấn đề về cá nhân Trump. Tính cách của ông làm gia tăng sự không chắc chắn trong quan hệ Mỹ-Trung. Ông không phải là một sự lầm lẫn sẽ qua đi khi có chính quyền mới. Cách tiếp cận của ông đối với Trung Quốc là một sự điều chỉnh cái được coi là điểm yếu của những người tiền nhiệm của ông. Xét cho cùng, Tổng thống George W. Bush là người đầu tiên gán cho Trung Quốc cái mác “đối thủ chiến lược” trước khi sự kiện ngày 11/9/2001 chuyển hướng sự chú ý của Mỹ sang Trung Đông. Sự “xoay trục” hay “tái cân bằng” của Tổng thống Obama cũng là biểu hiện của cùng một thái độ đó. Nhưng Chính quyền Obama hầu như không muốn cạnh tranh mạnh mẽ, sự xoay trục giống một khẩu hiệu hơn là một chính sách: nó được thực thi một cách do dự và Trung Đông vẫn gây xao lãng, đặc biệt là đối với Ngoại trưởng Kerry. Quan hệ Mỹ-Trung nhìn chung vẫn nhấn mạnh sự can dự.
Cả hai đảng cũng như các nhóm lợi ích khác nhau giờ đây có chung nhận thức rằng Mỹ đã quá dễ dãi đối với Trung Quốc: cộng đồng an ninh, những người ủng hộ nhân quyền và tự do tôn giáo, và quan trọng nhất là giới kinh doanh Mỹ. Những người nòng cốt ủng hộ Trump tin rằng Trung Quốc đã đánh cắp công ăn việc làm của họ. Điều này không đúng. Việc làm mất đi là do những nguyên nhân sâu xa hơn. Nhưng niềm tin này là một thực tế chính trị mà không đảng nào có thể phớt lờ. Người kế nhiệm Trump có thể ít gai góc hơn và dễ dự đoán hơn ông. Tuy nhiên, khả năng là bất kỳ ai kế nhiệm Trump cũng sẽ phải áp dụng cách tiếp cận cứng rắn đối với Trung Quốc. Thái độ hoài nghi đối với “thương mại tự do” với Trung Quốc bao trùm ở cả hai đảng.
Nước Mỹ của Trump thường được mô tả là đang rút lui. Cách mô tả này đang bóp méo một thực tế phức tạp hơn. Cả Chiến lược an ninh quốc gia 2017 lẫn Chiến lược quốc phòng 2018 đều không phải là những văn kiện theo chủ nghĩa biệt lập. Những văn kiện này và bài phát biểu của Phó Tổng thống Pence cho thấy rõ Chính quyền Trump tin rằng đây là thời kỳ cạnh tranh nước lớn và họ quyết tâm cạnh tranh chứ không rút lui. Chúng thể hiện một khái niệm hẹp và ít hào phóng hơn về sự lãnh đạo, ưu tiên chủ nghĩa song phương hơn chủ nghĩa đa phương, và trở lại với cách tiếp cận cũ là hòa bình thông qua sức mạnh. Người ta có thể có những sự nghi ngại nghiêm túc về khái niệm lãnh đạo và cách tiếp cận này. Nhưng chính xác thì không thể mô tả chúng là một “sự rút lui” được.
Người ta cũng có thể tranh luận về việc liệu cách tiếp cận mới có xứng đáng với cái giá phải trả hay không, và dự luật cuối cùng vẫn chưa được đệ trình. Nhưng một đánh giá thẳng thắn chắc hẳn sẽ kết luận rằng ít nhất là cho đến nay, Trump đã có được nhiều điều mà ông từng nói rằng ông mong muốn, cả trên trường quốc tế lẫn trong nước. Việc đảng Dân chủ tiếp quản Hạ viện trong cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ vào tháng 11/2018 sẽ không tạo ra sự khác biệt đáng kể. Quả thật, Hạ viện do đảng Dân chủ lãnh đạo có thể nhấn mạnh hơn vào các vấn đề nhân quyền trong quan hệ Mỹ-Trung. Sẽ là không khôn ngoan nếu mong đợi những thay đổi thực chất và to lớn.
Trung Quốc đã hiểu sai về những tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009. Họ dường như đã bắt đầu tin vào chính những gì họ đã tuyên truyền, rằng nước Mỹ đang sa sút và không thể gượng dậy. Bắc Kinh đã khái quát hóa quá mức trải nghiệm của họ về thái độ miễn cưỡng của Chính quyền Obama đối với việc nhấn mạnh những khía cạnh mang tính cạnh tranh trong quan hệ Mỹ-Trung. Họ đã hoàn toàn bỏ qua thái độ ngày một chua chát của giới kinh doanh Mỹ – vốn là một yếu tố tạo sự ổn định trong lịch sử quan hệ Mỹ-Trung – đối với Trung Quốc kể từ chính quyền thứ 43 thời Bush, chủ yếu là về tình trạng trộm cắp tài sản trí tuệ và ép buộc chuyển giao công nghệ.
Đến cuối thời Hồ Cẩm Đào và theo cách kiên quyết hơn nhiều dưới thời Tập Cận Bình, chính sách đối ngoại của Trung Quốc bắt đầu có giọng điệu đắc thắng và áp dụng cách tiếp cận tham vọng và quyết đoán hơn nhiều. Đỉnh điểm của cách tiếp cận mới này nằm ở sáng kiến “Vành đai và Con đường” (BRI) và bài phát biểu của Tập Cận Bình tại Đại hội 19 của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) vào tháng 10/2017 mà rõ ràng đã từ bỏ cách tiếp cận “giấu mình chờ thời” của Đặng Tiểu Bình.
Tham vọng toàn cầu và thái độ quyết đoán tất nhiên đã được thể hiện rõ ràng trong bài phát biểu này. Nhưng trên thực tế, trọng tâm của bài phát biểu tại Đại hội 19 ĐCSTQ lại là tình hình trong nước. Điểm quan trọng nhất là việc Tập Cận Bình định nghĩa lại “mâu thuẫn chính” mới mà Trung Quốc đang phải đối mặt – mâu thuẫn giữa “sự phát triển không cân bằng, không tương xứng và nhu cầu ngày càng gia tăng của người dân về một cuộc sống tốt đẹp hơn” và do đó, về đòi hỏi cấp thiết của việc đem lại sức sống mới cho ĐCSTQ để đáp ứng những nhu cầu đó. Điều này đặt ra một nghị trình vô cùng phức tạp ở trong nước về kinh tế, xã hội và chính trị mà Tập Cận Bình đã làm rõ rằng sự cai trị của ĐCSTQ phụ thuộc vào đó.
Nghị trình này bao gồm việc đưa ngành công nghiệp lên vị trí cao hơn trong chuỗi giá trị, giảm tình trạng dư thừa năng lực sản xuất, thúc đẩy sự đổi mới, bảo vệ môi trường, đem lại sức sống mới cho khu vực nông thôn, xử lý nợ, thúc đẩy tăng trưởng cân bằng trong khu vực, giải quyết vấn đề dân số già hóa, chăm sóc sức khỏe và an sinh xã hội, huy động nội lực xã hội, giáo dục, nhà ở, an ninh lương thực, xoa dịu căng thẳng xã hội. Mỗi vấn đề tự thân nó đã là một thách thức lớn.
Hơn nữa, Đại hội 19 ĐCSTQ chỉ đề cập một cách gián tiếp tới một vấn đề quan trọng còn sót lại từ Đại hội 18 ĐCSTQ vào năm 2012. Đại hội 18 ĐCSTQ đã thừa nhận rằng tăng trưởng giảm tốc là trạng thái “bình thường mới”, và mô hình vốn đã tạo nên sự tăng trưởng ngoạn mục của Trung Quốc trong những năm 1990 là không bền vững trong dài hạn. Phiên họp toàn thể năm 2013 diễn ra sau Đại hội 18 ĐCSTQ đã đề ra một nghị trình cải cách, trong đó vạch ra vai trò lớn hơn của thị trường trong các lĩnh vực then chốt nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên, việc thực hiện cũng chỉ có thể được cho là ở mức khiêm tốn.
Nâng cao vai trò của thị trường tức là nới lỏng sự kiểm soát. Làm thế nào để nâng cao hiệu quả kinh tế mà không gây rủi ro đối với quyền kiểm soát của ĐCSTQ? Tuy nhiên, nếu không nâng cao hiệu quả và bảo đảm tăng trưởng bền vững, thì sự cầm quyền của ĐCSTQ, vốn có được tính hợp pháp chủ yếu nhờ thành tựu kinh tế, cũng có thể bị đẩy vào nguy hiểm. Đâu là thế cân bằng phù hợp giữa thị trường và đảng? Không có câu trả lời rõ ràng. Tuy vậy, đối với Trung Quốc, đây là một câu hỏi căn bản – thậm chí có lẽ còn liên quan đến sự tồn tại . Duy trì ĐCSTQ là lợi ích sống còn nhất trong tất cả các lợi ích cốt lõi của Trung Quốc.
Việc giải quyết nghị trình trong nước mà Đại hội 19 ĐCSTQ đã đề ra sẽ cần tới nhiều thời gian và đòi hỏi phải có nguồn lực lớn. Các nguồn lực của Trung Quốc dù dồi dào nhưng không vô tận. Việc liên tục bổ sung các nguồn lực trên quy mô cần thiết để giải quyết những vấn đề này đòi hỏi phải có sự tăng trưởng bền vững. Tăng trưởng bền vững đòi hỏi phải có một mô hình mới. Mô hình mới đòi hỏi phải có một thế cân bằng mới giữa sự kiểm soát và tính hiệu quả.
Vẫn còn phải chờ xem Tập Cận Bình sẽ xử lý ra sao với câu hỏi trọng tâm này. Ông sẽ phải xử lý những sự cân nhắc mâu thuẫn lẫn nhau. Ông đã tìm cách trấn an các doanh nghiệp tư nhân đang chịu sức ép từ các biện pháp kiểm soát mới về tài chính và điều tiết. Nhưng ông cũng đã làm rõ rằng các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước sẽ tiếp tục giữ vị thế đặc quyền trong nền kinh tế. Không ai có thể đoán được sự cân bằng này cuối cùng sẽ được ấn định như thế nào. Cho đến nay, Tập Cận Bình rõ ràng đã chọn cách nhấn mạnh vào sự kiểm soát của đảng. Luận điệu mang màu sắc xã hội chủ nghĩa đã len lỏi trở lại vào những ngôn từ chính thức. Việc Tập Cận Bình nhấn mạnh sự kiểm soát mạnh mẽ hơn của đảng có thể đã làm trầm trọng thêm thách thức cốt lõi là tìm kiếm một mô hình mới dựa trên thế cân bằng mới giữa sự kiểm soát và tính hiệu quả.
BRI là một nỗ lực giải quyết thách thức then chốt trong nước này, cũng như là một biểu hiện của tham vọng toàn cầu. BRI xử lý thách thức này bằng cách đưa ra bên ngoài và xuất khẩu mô hình tăng trưởng của Trung Quốc – dựa trên sự phụ thuộc cao độ vào hoạt động đầu tư cơ sở hạ tầng do các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước dẫn dắt – mà Đại hội 18 ĐCSTQ từ năm 2012 đã thừa nhận là không bền vững ở Trung Quốc. BRI “câu giờ” để tìm ra một sự cân bằng mới giữa thị trường và đảng, nhưng tự thân nó không đặt ra một mô hình mới.
BRI và sự trỗi dậy của Trung Quốc dựa trên nền tảng toàn cầu hóa hậu Chiến tranh Lạnh do Mỹ dẫn dắt. BRI có thể thành công hay không nếu giữa Mỹ và Trung Quốc nổ ra xích mích dữ dội kéo dài về thương mại, hay nếu thế giới chuyển sang chủ nghĩa bảo hộ? Trung Quốc là nước hưởng lợi chính từ toàn cầu hóa hậu Chiến tranh Lạnh; họ rất có thể sẽ là kẻ thua cuộc chính nếu trật tự đó suy yếu vì nước Mỹ dưới thời Chính quyền Trump không còn tiếp nhận định nghĩa cởi mở và hào phóng về sự lãnh đạo nữa.
Trung Quốc không thể thay thế vai trò lãnh đạo của Mỹ. Ý tưởng về tính phổ quát của mô hình chính trị dân chủ tự do của Mỹ vẫn luôn là một ảo tưởng. Nhưng sự cởi mở và hào phóng của Mỹ cho phép các biến thể kinh tế của mô hình Mỹ phát triển trên toàn thế giới và gắn chặt với Mỹ. Chính Trung Quốc thời kỳ hậu Mao Trạch Đông là một ví dụ. Mỹ không còn sẵn sàng tỏ ra cởi mở hay hào phóng như vậy nữa. Nhưng trật tự quốc tế cởi mở không thể được dẫn dắt trên cơ sở một mô hình phần lớn vẫn đóng cửa và chủ yếu mang màu sắc trọng thương của Trung Quốc. Điều mà Bắc Kinh vẫn chưa quyết định chính là Trung Quốc cần mở cửa hơn như thế nào và bao nhiêu.
Ta không nên hiểu bất kỳ điều nào trong số này là ngụ ý rằng Trung Quốc sẽ thất bại. ĐCSTQ là một tổ chức có khả năng thích ứng, là sự lặp lại mới nhất của sự thử nghiệm chính trị và kinh tế đã có từ cuối triều đại nhà Thanh vào thế kỷ 19. Nhưng cách tiếp cận của Trump đối với thương mại chắc chắn đã làm phức tạp hóa các vấn đề đối với ĐCSTQ và khiến cho việc giải quyết nghị trình trong nước được đề ra trước đó trở nên khó khăn hơn. Phản ứng trước những vấn đề này có khả năng sẽ là những sự ứng biến không tối ưu được thực hiện trong bối cảnh “bình thường mới”, tức là tăng trưởng chậm hơn dù vẫn ở mức đáng kể.
Thái độ phản đối BRI đang trở nên rõ ràng trên phạm vi quốc tế, trong đó có Đông Nam Á. Sẽ chẳng có ai xa lánh việc cộng tác với Trung Quốc. Làm vậy sẽ là ngu ngốc. Nhưng BRI sẽ được thực hiện một cách chắp vá và nảy sinh nhiều vấn đề. Một số dự án sẽ hoạt động tốt hơn các dự án khác, một số sẽ đình trệ và một số sẽ thất bại. Mới đây, những dấu hiệu nhỏ nhưng đáng kể của thái độ phản đối tầm nhìn đầy tham vọng về Trung Quốc của Tập Cận Bình đã xuất hiện chính bên trong Trung Quốc, vốn đang bị dồn ép bởi cú sốc của cuộc chiến thương mại đã đẩy Bắc Kinh vào thế khó.
Vị thế của Tập Cận Bình không bị đe dọa. Tuy vậy, hiện giờ giọng điệu đắc thắng đã giảm bớt, tham vọng đã được hạ thấp, và đã có nỗ lực nhằm cải thiện bầu không khí trong quan hệ với Nhật Bản, Ấn Độ, Úc và ASEAN. Trung Quốc đã trả đũa thuế quan của Mỹ, nhưng phản ứng của họ không quá gay gắt. Nhưng các vấn đề căn bản vẫn chưa được giải quyết và Tập Cận Bình không thể tỏ ra yếu đuối. Đây chỉ là những điều chỉnh về chiến thuật, chứ không phải những lập trường mới mang tính xác định của Trung Quốc.
Về phía Mỹ, niềm tin rằng cuộc chiến thương mại đang gây tổn hại cho Trung Quốc – vốn không sai lầm trong trung và ngắn hạn – không đem lại cho Chính quyền Trump sự khích lệ nào để giảm bớt sức ép. Việc đàm phán lại thành công hiệp định thương mại tự do (FTA) với Hàn Quốc, thay thế Hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA) bằng Thỏa thuận Mỹ-Mexico-Canada với điều khoản mà trên thực tế đem lại cho Mỹ quyền phủ quyết việc các đối tác của nước này ký kết thỏa thuận thương mại với Trung Quốc, và việc Nhật Bản bằng lòng với các cuộc đàm phán thương mại song phương củng cố niềm tin rằng Trung Quốc đang phải chịu sức ép và có nguy cơ bị cô lập.
Trong lịch sử, thời kỳ của sự thống trị không bị tranh cãi của Mỹ là một giai đoạn khác thường và ngắn ngủi: từ khoảng năm 1989 đến khoảng năm 2008-2009. Trong phần lớn thế kỷ 20, hệ thống quốc tế bị chia rẽ bởi những tầm nhìn cạnh tranh của phương Tây và của phe chủ nghĩa cộng sản về trật tự toàn cầu với việc Trung Quốc là một thành viên trên thực tế của phe ủng hộ phương Tây từ năm 1972 cho tới khi Liên Xô sụp đổ, để cho Bắc Kinh tự do theo đuổi các lợi ích của chính họ một cách quyết đoán.
Chúng ta giờ đây đang ở trong giai đoạn chuyển tiếp sang một tình huống bình thường hơn về mặt lịch sử mà ở đó trật tự toàn cầu và khu vực bị chia rẽ và cạnh tranh nước lớn diễn ra. Nhưng sự cạnh tranh cao độ vẫn là một điều gì đó chưa đến mức “chiến tranh lạnh mới”. Phép ẩn dụ đó khiến cho người ta nhầm lẫn. Trung Quốc hội nhập với nền kinh tế thế giới và phụ thuộc qua lại với Mỹ ở mức lớn hơn nhiều so với Liên Xô trước đây. Sự phức tạp của tình hình mới nằm ở đây. Sẽ không dễ dàng tách rời Trung Quốc, dù một số nhân vật trong Chính quyền Trump có thể rất muốn làm như vậy, trừ phi nước này tự tách ra bằng cách theo đuổi chế độ tự cung tự cấp. Điều đó rất không có khả năng diễn ra vì làm như vậy tức là tự chuốc lấy thất bại.
Chính quyền Trump đã gán cho Trung Quốc cái nhãn của một “cường quốc theo chủ nghĩa xét lại”. Các yếu tố của chính sách phục thù được đưa vào câu chuyện về “sự phục hưng vĩ đại” mà với nó, ĐCSTQ hợp pháp hóa sự cầm quyền của mình. Trung Quốc không hài lòng với mọi khía cạnh của trật tự hậu Chiến tranh Lạnh dựa trên sự toàn cầu hóa do Mỹ dẫn dắt. Trung Quốc muốn vị thế mới của mình được công nhận. Nhưng Trung Quốc lại có thái độ nước đôi đối với trật tự hiện tại và không tỏ rõ sự bất mãn. Sẽ là quá lời nếu gọi một Trung Quốc đã hưởng lợi lớn từ toàn cầu hóa là “theo chủ nghĩa xét lại”. Vì lẽ nào Trung Quốc lại muốn đạp đổ tất cả? Việc Tập Cận Bình bảo vệ toàn cầu hóa có thể được hiểu là một biểu hiện gián tiếp của mối quan ngại về việc tương lai của trật tự đó có ý nghĩa gì đối với Trung Quốc.
Câu hỏi quan trọng là Trung Quốc sẽ phản ứng trước những sức ép mới như thế nào. Không phản ứng không phải là một lựa chọn đối với Bắc Kinh.
Giờ đây, có thể dễ dàng nhận thấy rõ rằng đó không chỉ là vấn đề Trung Quốc mua thêm đậu nành hay máy bay Boeing của Mỹ để giảm thâm hụt thương mại, như những gì mà ban đầu Bắc Kinh có thể đã nghĩ.
Điều mà Chính quyền Trump muốn giành được từ Trung Quốc không hoàn toàn rõ ràng nhưng hầu như chắc chắn sẽ đòi hỏi phải có những thay đổi về cấu trúc đối với nền kinh tế Trung Quốc mà ĐCSTQ vốn đã miễn cưỡng đưa ra. Hơn nữa, nguyên nhân sâu xa khiến cho các doanh nghiệp nước ngoài phải đối mặt với một sân chơi còn lâu mới bình đẳng ở Trung Quốc. Điều này đem lại vị thế đặc quyền cho các doanh nghiệp Trung Quốc, dù quốc hữu hay tư nhân, liên kết với ĐCSTQ. Trung Quốc sẽ không thay đổi cấu trúc nhà nước của mình. Bất kỳ sự nhượng bộ nào nhằm giảm bớt căng thẳng trong thương mại tất yếu đều sẽ không triệt để, và Bắc Kinh đã tỏ rõ rằng họ sẽ không đáp ứng các yêu cầu của Mỹ khi phải chịu sức ép.
Trung Quốc có thể tìm cách trở nên độc lập hơn trong các lĩnh vực then chốt của ngành công nghệ và có thể sẽ làm được điều này nếu có đủ thời gian. Tuy nhiên, sức ép đang hiện hữu ngay lúc này. Vì Trung Quốc nhập khẩu hàng hóa từ Mỹ ít hơn nhiều so với xuất khẩu hàng hóa sang Mỹ, nên phạm vi để áp thuế trả đũa bị hạn chế và có thể đã cạn kiệt. Bài phát biểu của Phó Tổng thống Pence cho thấy rõ Mỹ sẽ hành động chống lại Trung Quốc trên một mặt trận rộng lớn chứ không chỉ về thương mại. Trung Quốc có lẽ sẽ đáp trả theo cách tương tự. Nhưng không ai có thể dự đoán chính xác là bằng cách nào. Tất cả những gì chúng ta có thể khẳng định là vì bất kỳ sự nhượng bộ nào mà Trung Quốc sẵn sàng và có thể đưa ra cũng không có khả năng làm giảm sức ép, nên sớm muộn chính sách của Trung Quốc đối với Mỹ và các nước bạn bè, đồng minh của nước này, trong đó có các nước ở ASEAN, sẽ một lần nữa chuyển sang cứng rắn. Như đã lưu ý trước đó, Tập Cận Bình không thể tỏ ra yếu đuối.
Cho đến nay, Bắc Kinh đã phát đi những tín hiệu lẫn lộn. Chuyến thăm của cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mattis đã bị hủy bỏ, nhưng chuyến thăm của Ngoại trưởng Pompeo thì không. Trong Sách Trắng về thương mại với Mỹ được đưa ra gần đây, Trung Quốc đã tìm cách mô tả bản thân là nạn nhân và trước đó đã tìm cách tạo ra mối quan tâm chung với châu Âu để chống lại Chính quyền Trump. Nước này không có khả năng thành công. Châu Âu không hài lòng với các phương pháp của Trump nhưng họ có nhiều mối quan ngại tương tự về Trung Quốc. Và châu Âu không thể đối phó với một nước Nga đang trỗi dậy mà không có Mỹ.
Trong gần một thập kỷ, cuộc cạnh tranh Mỹ-Trung ở Biển Đông đã và đang đại diện theo cách nào đó cho cuộc cạnh tranh Mỹ-Trung nói chung. Về mặt chiến lược, tình hình ở Biển Đông đang bế tắc. Trung Quốc sẽ không từ bỏ tuyên bố chủ quyền của mình đối với hầu hết Biển Đông. Các đảo được cải tạo và việc triển khai các phương tiện quân sự ở đó là một sự đã rồi. Nhưng Trung Quốc cũng không thể ngăn chặn Mỹ và các đồng minh của nước này hoạt động trong, qua và trên Biển Đông mà không có nguy cơ kích động một cuộc chiến tranh không mong muốn vì nước này không thể chiến thắng. Chính quyền Trump đã nới rộng phạm vi hoạt động của Hạm đội 7 để tiến hành các hoạt động tự do hàng hải ở Biển Đông. Nhật Bản và các đồng minh khác của Mỹ cũng đang bắt đầu phản đối những yêu sách của Trung Quốc. Mỹ đã phát đi tín hiệu về ý định của nước này tiến hành các hoạt động phô trương sức mạnh thậm chí với quy mô lớn hơn ở Biển Đông. Điều này làm gia tăng nguy cơ xảy ra những tai nạn mà Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) hiện đang được ASEAN và Trung Quốc thảo luận sẽ hầu như không làm được gì để giảm bớt và bất luận thế nào thì cũng còn lâu mới hoàn thành. ASEAN không nên tự dối mình rằng COC sẽ tạo ra bất kỳ sự khác biệt đáng kể nào.
Mỹ và Trung Quốc sẽ không nhanh chóng hay dễ dàng đạt được một tạm ước mới; cả hai bên đều không có khả năng đạt được mọi thứ họ muốn ở nhau. Điều này ngụ ý rằng ASEAN sẽ phải tìm cách vượt qua một giai đoạn dài mà khi đó sự lộn xộn và sự không chắc chắn đều ở mức cao hơn bình thường. Tuy vậy, chiến tranh có chủ đích không có khả năng nổ ra. Chỉ khi Mỹ ủng hộ Đài Loan giành độc lập thì Trung Quốc mới buộc phải chiến đấu. Điều này không có khả năng diễn ra. Nếu có tai nạn xảy ra trên Biển Đông hay nơi nào khác, thì cả hai bên có thể sẽ tìm cách kiềm chế nó. ASEAN phải có khả năng đối phó với những tình huống chưa tới mức nổ ra chiến tranh Mỹ-Trung. Trước đây, ASEAN đã từng xử lý những tình huống phức tạp và nguy hiểm hơn nhiều. Nhưng điều này sẽ đòi hỏi sự nhanh nhẹn, tính đoàn kết và quyết tâm cao hơn những gì ASEAN đã thể hiện trong những năm gần đây.
Một số nhà phân tích suy đoán rằng ASEAN có thể có những cơ hội ngắn hạn và trung hạn nếu các công ty nước ngoài dịch chuyển hoạt động sản xuất từ Trung Quốc sang Đông Nam Á. Suy đoán này khả thi nhưng thiển cận. Việc dịch chuyển hoạt động sản xuất ra khỏi Trung Quốc nói thì dễ hơn làm, và dù có chiến tranh thương mại hay không thì cũng sẽ chẳng có ai từ bỏ thị trường Trung Quốc, dù các khoản đầu tư mới và được nâng cấp có thể sẽ bị trì hoãn. Một cuộc chiến thương mại kéo dài có khả năng làm thay đổi căn bản các chuỗi cung ứng. Những mối quan ngại về an ninh chuỗi cung ứng có thể đẩy nhanh tiến trình này. Những sự thay đổi trong các chuỗi cung ứng có thể chặn đứng hoặc làm phức tạp nghiêm trọng nỗ lực của các nước thành viên ASEAN trong việc di chuyển lên phía trên chuỗi giá trị. Trong mọi trường hợp, các nước thành viên ASEAN phải chống lại sự cám dỗ của việc hành động như một cửa sau để các công ty Trung Quốc tiến vào Mỹ.
Để ngăn chặn những sự không chắc chắn trong dài hạn và tận dụng mọi cơ hội có thể có, ASEAN cần phải hành động một cách táo bạo trong giai đoạn 2 của tiến trình hội nhập kinh tế, vốn nhắm tới việc tạo ra một thị trường chung và nền tảng sản xuất chung ở Đông Nam Á. Ở đây, những nhân tố thành công then chốt là nền chính trị trong nước của các nước thành viên ASEAN; tức là cái nằm trong tay chúng ta chứ không phải trong các chính sách của Trung Quốc hay Mỹ. ASEAN cần nhận ra rằng rủi ro lớn nhất mà họ phải đối mặt là thái độ miễn cưỡng chấp nhận rủi ro mà hoạt động ra quyết định của ASEAN đã bị tiêm nhiễm trong những năm gần đây.