Thursday, December 19, 2024
Trang chủSự thật Trung HoaNhật Bản tăng cường năng lực quốc phòng đối phó TQ trên...

Nhật Bản tăng cường năng lực quốc phòng đối phó TQ trên Biển Hoa Đông

Để đối phó với Trung Quốc trên biển Hoa Đông, Nhật Bản đã tăng cường năng lực quốc phòng, nhất là việc đóng mới và cải hoán nhiều loại tàu chiến mới cho Lực lượng phòng vệ trên biển (JMSDF).

Kế hoạch tăng cường năng lực quốc phòng của Nhật Bản

Bộ Quốc phòng Nhật Bản mới đây công bố kế hoạch đóng mới 12 tàu tuần tra hạng nhẹ cho Lực lượng phòng vệ trên biển (JMSDF) vào năm 2020. Mỗi chiếc dự kiến có lượng giãn nước 1.000 tấn và thủy thủ đoàn 30 người, giúp tăng cường khả năng tuần tra và trinh sát trên biển của nước này. Các tàu tuần tra thế hệ mới sẽ đảm đương nhiệm vụ cho đội tàu khu trục cỡ lớn đang được Nhật Bản sử dụng để tuần tra gần nhóm đảo tranh chấp Senkaku/Điếu Ngư trên Biển Hoa Đông. Tuy nhiên, Bộ Quốc phòng Nhật Bản không tiết lộ căn cứ đóng quân và thời điểm đưa các chiến hạm mới vào biên chế. Trước đó, Nhật Bản cũng khởi động chương trình đóng mới 22 khu trục hạm, mỗi chiếc có lượng giãn nước 3.900 tấn và thủy thủ đoàn 100 người, nhằm bảo đảm khả năng tuần tra Biển Hoa Đông trước năm 2032.

Chính phủ Nhật Bản (18/12/2018) cũng thông qua kế hoạch quốc phòng mới, trong đó đề xuất mua thêm 105 tiêm kích tàng hình F-35, trong đó có 65 chiếc F-35A và 40 chiếc F-35B để vận hành trên hai tàu sân bay hoán cải từ khu trục hạm trực thăng lớp Izumo. Được biết, chính phủ Nhật Bản sẽ cải tạo tàu sân bay trực thăng Izumo, chiến hạm lớn nhất Nhật Bản với boong tàu kéo dài từ đuôi đến mũi tàu. Tuy nhiên, tàu sân bay trực thăng Izumo phải cải tạo lại boong tàu với khả năng chịu được nhiệt độ cao từ ống xả động cơ khi máy bay cất hạ cánh. Nhà chứa máy bay bên trong cũng phải được thiết kế lại để phù hợp với máy bay mới. Tàu có chiều dài 248 m, rộng lớn nhất 38 m, lượng choán nước đầy tải 27.000 tấn. Izumo có khả năng mang theo 28 trực thăng, nhưng bình thường chỉ mang theo 7 trực thăng chống ngầm và 2 trực thăng cứu hộ. Boong tàu đủ rộng cho 5 trực thăng hạng trung hoạt động cùng lúc. Các chuyên gia quân sự nhận xét về cơ bản, Izumo hoàn toàn phù hợp để triển khai hoạt động tiêm kích tàng hình F-35B với một số cải tạo về boong tàu, thang máy và nhà chứa máy bay.

Được biết, Chính phủ Nhật Bản và Hội đồng An ninh quốc gia (NSC) mới đây đã thông qua Kế hoạch Phòng vệ trung hạn giai đoạn 2019-2023 và Đại cương Kế hoạch phòng vệ với dự kiến chi 27,4 nghìn tỷ yên (243 tỷ USD) dành cho ngân sách quốc phòng 5 năm tới, con số cao nhất từ trước tới nay. Riêng năm tài khóa 2019, chính phủ đã phê chuẩn ngân sách quốc phòng kỷ lục trị giá 5,26 nghìn tỷ yên (48 tỷ USD), trong đó chú trọng nâng cấp khu trục hạm, mua thêm máy bay chiến đấu tàng hình và tên lửa để đối phó các thách thức an ninh khu vực.

Bên cạnh đó, Nhật Bản dự định đầu tư 176 tỷ yên chi phí ban đầu cho hai hệ thống radar phòng không Aegis Ashore đặt trên mặt đất do Mỹ sản xuất, có khả năng theo dõi và khóa mục tiêu các tên lửa đạn đạo trên không, với mục tiêu đưa hệ thống phòng không này vào hoạt động trong năm 2023.Xây dựng sức mạnh phòng vệ tổng hợp. Theo Đại cương Kế hoạch phòng vệ, Nhật Bản cũng quyết định mua thêm 105 máy bay chiến đấu thế hệ mới F-35, trong đó 42 tiêm kích là mẫu F-35B, giá khoảng 115 triệu USD/chiếc, có khả năng cất cánh và hạ cánh thẳng đứng. Với việc chi hàng tỷ USD mua thêm F-35, Nhật Bản đã vượt Anh, trở thành quốc gia sở hữu lượng tiêm kích F-35 nhiều thứ hai thế giới, chỉ sau Mỹ, Defense News cho biết.

Ngoài các hình thái tác chiến truyền thống, Nhật Bản cũng lần đầu tiên xác định tác chiến trên mạng máy tính, không gian vũ trụ và sóng điện từ là những hình thái mới cần tập trung phát triển để xây dựng sức mạnh phòng vệ tổng hợp nhằm đối phó hiệu quả với sự thay đổi của môi trường an ninh quốc tế. Cụ thể, Nhật Bản sẽ nâng cấp đơn vị tác chiến mạng, thành lập một đơn vị mới có nhiệm vụ giám sát không gian vũ trụ để ngăn chặn các mảnh rác vũ trụ gây nguy hiểm cho hệ thống vệ tinh nhân tạo hoặc ngăn chặn hệ thống chỉ huy tác chiến sử dụng hệ thống định vị vệ tinh của đối phương.

Mục tiêu chính là đối phó với Trung Quốc trên Hoa Đông

Quan hệ giữa Nhật Bản và Trung Quốc xấu đi từ năm 2012, khi Tokyo “quốc hữu hóa” một số đảo thuộc Senkaku/Điếu Ngư. Hai cường quốc kinh tế châu Á sau đó đã có những động thái hàn gắn quan hệ nhưng vẫn còn căng thẳng. Tàu tuần duyên Trung Quốc thường di chuyển quanh quần đảo tranh chấp. Do đó, Nhật Bản luôn coi Trung Quốc là mối đe dọa tới lợi ích trên biển và toàn vẹn lãnh thổ, cụ thể là đảo Okinawa và nhóm đảo Senkaku/Điếu Ngư. Những năm gần đây, Nhật Bản dường như đang phải chật vật để theo kịp với hoạt động quân sự của Trung Quốc tại khu vực Senkaku/Điếu Ngư. Hải quân, không quân Trung Quốc nhiều lần điều tàu chiến, tàu tuần tra, máy bay các loại áp sát nhóm đảo Senkaku/Điếu Ngư, buộc Nhật Bản triển khai lực lượng giám sát và ngăn chặn với tần suất ngày càng tăng. Sức ép tăng lên sau khi Trung Quốc đơn phương lập vùng nhận diện phòng không (ADIZ) trên Biển Hoa Đông, chồng lấn với ADIZ của Nhật Bản và Hàn Quốc.

Trên thực tế, căng thẳng giữa Nhật Bản và Trung Quốc chủ yếu xuất phát từ tranh chấp chủ quyền đối với quần đảo Điếu Ngư/Senkaku

Nhật Bản cho rằng, trước năm 1895, quần đảo Điếu Ngư/Senkaku thuộc loại đất “vô chủ – terra nullius” và không có người ở. Từ năm 1884 ngư dân Nhật Bản đã bắt đầu khai thác lông chim và phân chim ở các đảo này nhưng không hề gặp một trở ngại nào từ phía triều đình Trung Quốc, cũng như không gặp một người Hoa nào sinh sống hay khai thác kinh tế ở đây. Nhật Bản đã tiến hành thủ tục sát nhập chủ quyền quần đảo này vào tháng 1/1895, tức trước hiệp ước Shimonoseki 3 tháng. Mặt khác, dù Trung Quốc (Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa) và Đài Loan (Trung Hoa Dân Quốc) đều không tham dự hội nghị San Francisco 1951, nhưng phía Đài Loan sau này được Nhật Bản lựa chọn là đại diện chính thức của Trung Hoa, ký kết hòa ước năm 1952. Riêng về phía Trung Quốc, bị gạt đứng ngoài, do đó không công nhận nội dung Hòa Ước San Francisco 1951. Nhưng nội dung tuyên bố của Chu Ân Lai về việc không công nhận Hòa Ước San Francisco thì không hề đề cập đến quần đảo Điếu Ngư/Senkaku. Ngoài ra, trong tuyên bố về lãnh hải của Trung Quốc năm 1958 về việc xác định bề rộng lãnh hải 12 hải lý tính từ bờ “áp dụng trên toàn bộ lãnh thổ Trung Quốc, các hải đảo Đài Loan và các đảo phụ thuộc, đảo Bành Hồ và các đảo phụ thuộc, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa (Trường Sa)…” không đề cập đến quần đảo Điếu Ngư/Senkaku. Ngoài ra, trong thời gian Mỹ quản lý quần đảo Điếu Ngư/Senkaku Nhật Bản vẫn giữ được chủ quyền trên pháp lý (souveraineté résiduelle) đối với khu vực này, do đó dân chúng sống tại các đảo này vẫn giữ quốc tịch Nhật Bản mà không có quốc tịch Mỹ.

Chính phủ Nhật Bản cũng đã nhiều lần tái khẳng định Điếu Ngư/Senkakunthuộc chủ quyền của Nhật Bản và trên thực tế, khu vực này đang thuộc quyền kiểm soát của Nhật Bản; quần đảo Điếu Ngư/Senkaku không tồn tại tranh chấp; Nhật Bản sẵn sàng giải quyết tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc thông qua các biện pháp hòa bình, tôn trong luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982; Hiến chương Liên hợp quốc… Trong thời gian tới, không loại trừ khả năng Nhật Bản sẽ kiện Trung Quốc ra các cơ quan tài phán về tranh chấp biển đảo. Thời gian gần đây, để đối phó với các hành động cứng rắn của Trung Quốc ở Điếu Ngư/Senkaku, Nhật Bản đã có sự điều chỉnh chính sách quốc phòng nhằm bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; đảm bảo an toàn cho ngư dân khi đánh bắt cá trong khu vực thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Nhật Bản.

Trong khi đó, Trung Quốc cho rằng Đảo Điếu Ngư và các đảo lân cận là một phần không thể tách rời của “lãnh thổ” Trung Quốc và Trung Quốc có “chủ quyền không tranh cãi đối với đảo này”. Việc Nhật Bản lợi dụng Chiến tranh Trung – Nhật để “cướp đoạt” đảo Điếu Ngư là phi pháp, vô giá trị. Quần đảo Điếu Ngư/Senkaku do người dân Trung Quốc khám phá từ thế kỷ thứ 15, được sát nhập Trung Quốc vào thế kỷ 16, dưới thời nhà Thanh. Năm 1720, Từ Bảo Quang, vị phó sứ Trung Quốc trong chuyến đi nhằm phong tước vương cho vua của nước Lưu Cầu (Ryukyu), đã cùng với các học giả địa phương đã biên dịch cuốn du ký Zhongshan Chuanxin lu (Trung Sơn truyền tín lục) – ghi chép về hành trình tới Trung Sơn (Chusan), trong đó xác định rõ biên giới cực Tây của vương quốc Lưu Cầu là tại đảo Kume, phía Nam của Hắc Thủy Câu. Một vị phó sứ khác là Châu Hoàng cũng xác định Hắc Thủy Câu là ranh giới vào năm 1756. Sau này, sứ thần Lý Định Nguyên có ghi chép lại về phong tục hiến tế sống một con dê hoặc lợn khi có đoàn tàu đi sứ qua vùng nước này. Cuối thế kỷ 19, nhà cải cách Vương Đào, người từng có kinh nghiệm du hành tới châu Âu đã phản bác việc Nhật Bản sáp nhập Lưu Cầu (Ryukyu) bằng cách dẫn nguồn các tài liệu cổ Nhật Bản trong đó nói rằng Ryukyu là một quốc gia riêng biệt vào năm 1670. Ông lập luận rằng mặc dù quần đảo này là chư hầu của cả Trung Quốc và xứ Satsuma của Nhật Bản, nhưng mối quan hệ với Trung Quốc có tính chính thống hơn; việc một nước triều cống bên ngoài (tức Nhật Bản) xâm chiếm một nước triều cống bên trong Trung Quốc là một sự sỉ nhục đối với Trung Quốc. Trong những năm sau, các hòn đảo được cai quản như một bộ phận của Đài Loan và ngư dân Trung Quốc đã liên tục dùng khu vực này làm cơ sở hoạt động. Đài Loan đã được nhượng cho Nhật Bản năm 1895 sau chiến tranh Trung-Nhật lần thứ 1. Ban đầu, trong thời gian Nhật chiếm đóng, quần đảo Điếu Ngư/Senkaku thuộc quyền quản lý của tỉnh Đài Bắc. Tại Hội nghị Cairo năm 1943, ba nhà lãnh đạo là Thủ tướng Anh Churchill, Tổng thống Mỹ Roosevelt và Tổng tư lệnh Trung Hoa Dân Quốc Tưởng Giới Thạch nhất trí một khi Thế chiến 2 kết thúc, “Nhật Bản sẽ bị tước bỏ tất cả các đảo ở Thái Bình Dương mà nước này đã giành hoặc chiếm đóng kể từ đầu Thế chiến thứ nhất năm 1914 và tất các các lãnh thổ mà Nhật đã cướp của Trung Hoa Dân Quốc như Mãn Châu, Đài Loan và quần đảo Bành Hồ sẽ được giao lại cho Trung Hoa Dân Quốc”. Trung Quốc cho rằng: Điếu Ngư/Senkaku là một phần của Đài Loan do Trung Quốc cai quản trước năm 1895, đồng nghĩa với việc khu vực này phải được trả lại cho Trung Quốc cùng với các đảo bị thôn tính khác.

Theo quan điểm của Trung Quốc, có rất ít cơ sở để Nhật Bản khẳng định rằng quần đảo Điếu Ngư/Senkaku trước đây là “vô chủ” và cần có sự phân biệt giữa “không người ở” với “vô chủ”. Có những nguồn tài liệu nói rằng có một số mộ của ngư dân Đài Loan trên đảo. Tuy lực lượng chiếm đóng của Mỹ ở Okinawa đã quản lý quần đảo Điếu Ngư/Senkaku từ năm 1945 đến năm 1972 và dùng nơi này làm căn cứ huấn luyện nhưng Chính phủ Mỹ không hề cho rằng việc chuyển giao quyền quản lý quần đảo cho Nhật Bản đồng nghĩa với việc chuyển giao chủ quyền và Mỹ khẳng định rõ rằng đây là vấn đề cần được các bên liên quan cùng giải quyết.

RELATED ARTICLES

Tin mới