Sau khi Tổ chức Sáng kiến minh bạch hàng hải châu Á (AMTI, 8/4) của Trung tâm nghiên Chiến lược Quốc tế CSIS ở Washington (Mỹ) công bố tài liệu cho rằng Việt Nam tiếp tục nâng cấp các cơ sở vật chất ở quần đảo Trường Sa, giới chuyên gia, học giả quốc tế đã đưa ra một số đánh giá khách quan về thông tin trên.
Về thông tin Việt Nam đã cải tạo 4 đảo, đá ở quần đảo Trường Sa
Theo AMTI, Việt Nam đã “âm thầm” nâng cấp việc xây dựng các cơ sở vật chất ở quần đảo Trường Sa nhưng không có ý định quân sự hóa trên vùng Biển Đông như Trung Quốc; cho rằng Việt Nam hiện đang “chiếm cứ” 49 tiền đồn trải rộng trên 27 thực thể xung quanh quần đảo Trường Sa. Trong số các thực thể trên, chỉ có 10 có thể được gọi là đảo nhỏ trong khi phần còn lại là các bãi đá ngầm nằm bên dưới mặt nước. AMTI nhận định Việt Nam “đã tiến hành mở rộng” Trường Sa – tiền đồn lớn nhất và là trung tâm hành chính của Việt Nam trong khu vực Biển Đông.
Theo AMTI, Việt Nam đã tiến hành cải tạo, nâng cấp các đảo, đá ở Biển Đông như sau: Ở phía Đông Bắc của đảo Trường Sa, Việt Nam xây dựng hai cơ sở thông tin liên lạc, truyền tín hiệu; và xây một cụm các tòa nhà trên khu đất mới bồi đắp, dọc theo bến cảng nhân tạo; xây một khu thể thao gần tòa nhà hành chính trên đảo. Nhiều tòa nhà được lắp các tấm pin mặt trời. Để bảo vệ toàn bộ vùng đất mới được hình thành này khỏi nước dâng khi có bão, Việt Nam đã đào một loạt các kênh thoát nước phức tạp dọc theo rìa đảo.
Ở phía Tây Nam các rạn đá và đảo nhỏ thuộc quần đảo Trường Sa Việt Nam đã xây dựng 14 tiền đồn trong khu vực này, nơi được gọi là các “trạm dịch vụ kinh tế, khoa học và công nghệ”.
Cụ thể: Trước 2014, Việt Nam bồi đắp thêm 6 mẫu đất trên rạn Phan Vinh (Pearson Reef); từ năm 2015- 2016, mở rộng đường băng ở đảo Trường Sa từ 750m ban đầu lên đến 1.300m và xây một bến cảng. Tổng cộng, Việt Nam đã tạo thêm khoảng 40 mẫu đất tại đảo Trường Sa thông qua nạo vét một phần rạn san hô bao quanh đảo rồi san lấp bằng cát. Quá trình này được cho là tốn nhiều thời gian hơn và ít gây hại cho môi trường hơn so với các phương pháp nạo vét và san lấp quy mô công nghiệp của Trung Quốc tại Trường Sa. Từ 2016, tiến hành nâng cấp cơ sở vật chất trên rạn Phan Vinh, bao gồm xây dựng sân bay trực thăng, lắp các tấm pin mặt trời và trồng thảm thực vật trên các khu đất mới. Từ giữa 2017 đến nay, Việt Nam cho lắp một radar lớn trên đỉnh một tòa nhà ở phía tây của rạn Phan Vinh, cho thấy sự cải thiện về tín hiệu hoặc khả năng liên lạc. Việc trồng cây xanh trên các khu vực bãi đất mới, có lẽ để tránh xói mòn, cũng đã hoàn tất. Việt Nam cũng tiến hành mở rộng Đá Nam và Đá Núi Thị (Petley và South Reefs). Việt Nam còn xây thêm các trạm dịch vụ kinh tế, khoa học và công nghiệp ở Bãi Phúc Tần (Prince of Wales) và Bãi cạn Quế Đường (Grainger Banks) và một sân bay trực thăng lớn. Cũng trong năm này, Việt Nam hoàn thiện đường băng và bốn nhà chứa máy bay; Các máy bay này nhiều khả năng là máy bay giám sát hàng hải PZL M28B và máy bay vận tải CASA C-295, theo AMTI.
Đáng chú ý, khảo sát của AMTI còn cho biết rằng “Việt Nam không có ý định quân sự hóa các thực thể với quy mô lớn như của Trung Quốc.” AMTI cũng nói rằng “không có dấu hiệu nào cho thấy các cơ sở được xây dựng để chứa các máy bay tấn công.” Thay vào đó, những nâng cấp của Việt Nam dường như hướng đến việc mở rộng khả năng theo dõi và tuần tra của họ trên vùng biển có tranh chấp và cải thiện các điều kiện cũng như đảm bảo rằng họ có thể tái cung ứng bằng đường không khi cần thiết.
Đánh giá khách quan của giới học giả quốc tế
Giáo sư Carl Thayer, Học viện Quốc phòng Australia cho rằng cần đặt việc này trong đúng bối cảnh. Đó là việc Việt Nam, thực ra, đã sở hữu một số thực thể ở Trường Sa từ trước năm 2002, thời điểm Trung Quốc và ASEAN kí kết Tuyên bố ứng xử của các bên tại Biển Đông (DOC). Theo DOC, các bên tham gia cam kết không tiến hành chiếm bất cứ các rặng đá ngầm, bãi cát ngầm, đảo nhỏ… nào ở Biển Đông. Trường hợp Việt Nam, nước cũng tham gia DOC, thực tế đã tiến hành việc chiếm hữu một số thực thể ở đây trước năm 2002. Do đó, việc AMTI mới đây đưa ra báo cáo công khai về tình hình xây dựng của Việt Nam tại Trường Sa có thể khiến nhiều người nhảy dựng lên rằng “các nước khác cũng đang làm y như Trung Quốc. Nhưng trên thực tế, ảnh vệ tinh cho thấy các khu vực mà Trung Quốc đang quân sự hóa trên Biển Đông chiếm diện tích chủ yếu. Trong khi một phần rất nhỏ còn lại là của các nước khác”. Giáo sư Carl Thayer cho rằng “báo cáo AMTI thực ra muốn đưa ra cái nhìn công bằng hơn về tình hình ở Biển Đông, với một bên là đối trọng Trung Quốc”. Cụ thể hơn, việc xây dựng của Việt Nam tại Trường Sa – như mô tả trong báo cáo – là bình thường, với các công trình rất nhỏ và khiêm tốn. Không thể nào so sánh được với quy mô xây dựng của Trung Quốc. Không những vậy, báo cáo của AMTI nói rằng Việt Nam đang hoàn thiện đường băng dài 1.300m và cho lắp đặt radar cho phép Việt Nam có thể thu phát các tín hiệu liên lạc từ các tàu, thuyền của Trung Quốc thì không có gì là, vì đây là một cuộc chơi công bằng giữa các bên liên quan ở Biển Đông và sẽ không cho rằng có nước nào phải phật lòng về động thái này của Việt Nam. Việt Nam đã ở đó từ trước 2002. Thực tế là Việt Nam đã hiện diện tại một số vị trí ở Biển Đông từ trước Giải phóng Miền Nam và đã có lịch sử đánh bắt, khai thác cá tại ngư trường này. Việt Nam đã đưa người tới các khu vực đó sinh sống, lập gia đình, sinh con cái, mở trường học. Và không có vấn đề gì từ đó tới nay. Việt Nam chưa thực hiện hành động nào đe dọa an ninh khu vực. Đáng chú ý, ông Carl Thayer đặt câu hỏi ngược cho rằng “nếu như những việc Việt Nam đang làm được cho là gây nguy cơ cho an ninh khu vực, thì thử nói xem những cái mà Trung Quốc đang tiến hành là gì?”
Dù chỉ xây dựng lặng lẽ và với quy mô nhỏ như vậy suốt nhiều năm tại Trường Sa và một số đảo khác tại Biển Đông, Giáo sư Carl Thayer cho rằng việc làm này là cần thiết để Việt Nam khẳng định chủ quyền và sự hiện diện của mình ở Biển Đông. Hiện Trung Quốc ngày càng bành trướng ở Biển Đông và điều quan trọng là các nước chọn cách thức phản ứng như thế nào. Chúng ta có thể hợp tác nhưng không có nghĩa là không có cách để lên tiếng mạnh mẽ về chủ quyền của mình. Và Việt Nam đang đi con đường đúng đắn. “So sánh với những gì đã xảy ra với Philippines thì tôi cho rằng Việt Nam đã chọn con đường phù hợp hơn. Nếu như Việt Nam im lặng trước mọi hành động bắt nạt của Trung Quốc thì cái mà Việt Nam nhận được sẽ là gì? Trung Quốc sẽ lại tiếp tục bao vây, xua đuổi, tấn công tàu cá, tịch thu lưới đánh cá… Và Việt Nam đã chọn cách củng cố sự hiện diện của mình ở khu vực này…. Hoàn toàn trái ngược với cách Tổng thống Philippines từng chọn là ‘khom lưng cúi gối’ mà làm bạn với Trung Quốc”, ông Carl Thayer nói.
Ngoài ra, giáo sư Carl Thayer cho biết, Trung Quốc biết Việt Nam nâng cấp cơ sở hạ tầng ở Trường Sa nhưng tới nay vẫn im lặng, không phản ứng quyết liệt như họ mới đây đã làm với việc xây dựng của Philippines trên đảo Thị Tứ, điều này cho thấy các bước đi của Việt Nam “không gây lo ngại cho bất cứ quốc gia nào, kể cả Trung Quốc”.
Luật sư Hoàng Việt, chuyên nghiên cứu về Biển Đông cho rằng việc xây dựng ở Trường Sa như Việt Nam đang tiến hành “không làm thay đổi tính chất pháp lý cho các yêu sách về chủ quyền của Việt Nam”. Vụ Philippines kiện Trung Quốc mà Toà Trọng tài ra phán quyết năm 2016 khẳng định điều này. Theo đó, mọi hành động nhằm thay đổi tính chất pháp lý của các thực thể trên Biển Đông sau thời điểm tranh chấp sẽ không được các toà quốc tế chấp nhận. Ngoài ra, việc bồi lấp các thực thể cũng không biến nó thành “đảo” nếu nó là đá hoặc bãi lúc chìm lúc nổi được. Trong khi với mức độ xây dựng nhỏ, chủ yếu với mục đích tăng cường khả năng phòng vệ và cứu hộ, Việt Nam không làm cho các quốc gia khác lo ngại như với mức độ quân sự hóa của Trung Quốc.
Báo cáo của AMTI mô tả khá chi tiết các bước xây dựng và nâng cấp cơ sở hạ tầng của Việt Nam từ năm 2015 tới nay. Báo cáo này cũng cho hay quy mô và cách thức mà Việt Nam tiến hành rất “từ từ và khiêm tốn”. Hầu hết các khu vực mà Việt Nam cho tiến hành xây dựng không nằm trực tiếp trên các đảo nhỏ tự nhiên như Trường Sa và Phan Vinh, mà ở các rạng đá thấp hơn mực thủy triều và ở các bãi ngập nước. Các động thái này cho thấy Việt Nam không cố gắng tham gia vào việc quân sự hóa quy mô lớn tại quần đảo Trường Sa như Trung Quốc.
Việt Nam có đầy đủ căn cứ pháp lý và bằng chứng lịch sử khẳng định chủ quyền của đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa phù hợp với luật pháp quốc tế. Khu vực quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biển phụ cận là một phần lãnh thổ, lãnh hải hợp pháp của Việt Nam, đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận. Vì vậy, việc Việt Nam nâng cấp một số cơ sở trên các đảo, đá trong vùng biển của Việt Nam là phù hợp với quy định của luật pháp quốc tế. Hành động trên của Việt Nam không nhằm chạy đua vũ trang và quân sự hóa trong khu vực, chỉ đơn thuần nhằm đảm bảo an ninh, an toàn hàng hải, đảm bảo cung ứng vật tư phục vụ đời sống cán bộ, chiến sỹ và người dân trên đảo. Ngoài ra, hành động trên của Việt Nam cũng nhằm đảm bảo hỗ trợ tàu thuyền các nước gặp khó khăn khi đi qua vùng biển này, để thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm đối với cộng đồng quốc tế.