Wednesday, November 27, 2024
Trang chủSự thật Trung HoaChiến lược dùng kinh tế lôi kéo, chia rẽ lập trường các...

Chiến lược dùng kinh tế lôi kéo, chia rẽ lập trường các nước trong vấn đề Biển Đông của TQ hiện nay

Trong những năm qua khi vấn đề Biển Đông trở thành mối quan tâm của các nước trong và ngoài khu vực,khiến Trung Quốc trở thành tâm điểm của sự công kích, chỉ trích thì chính quyền Bắc Kinh đã tìm cách phân hóa, chia rẽ lập trường khu vực theo ba nhóm: (1) Ủng hộ tuyên bố, chính sách của Trung Quốc. (2) Trung lập, hạn chế đưa ra lập trường. (3) Chỉ trích, lên án hành động của Trung Quốc ở Biển Đông.

Để tập hợp nhóm (1), nhóm (2) và phân rẽ trong nhóm (3), Trung Quốc đã lợi dụng những đặc điểm và nhu cầu lợi ích của những nước này một cách triệt để, mà công cụ chính đó chính là kinh tế. Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất đối với nhiều nước trên thế giới và nhanh chóng trở thành đối tác thương mại lớn nhất đối với các nước khác. Trung Quốc thường đưa ra các khoản viện trợ ngay cả đối với những đối thủ của mình với hy vọng kéo họ về quỹ đạo của Bắc Kinh. Điều này đã đặc biệt gây rối loạn cho các nền dân chủ hoặc các nước đang nỗ lực hướng tới xây dựng nền dân chủ. Ở các quốc gia này, Trung Quốc có thể chờ cơ hội tốt cho đến lúc một chính phủ có lợi cho Trung Quốc được bầu lên, sau đó, củng cố thêm mối liên kết và sự phụ thuộc của nước đó vào mình như trường hợp của Philippines.

Lôi kéo các nước tham gia đàm phán, thúc đẩy hợp tác song phương, điển hình là trường hợp Philippines

Đầu những năm 2000, dự án nghiên cứu địa chấn chung (JMSU) giữa Philippines, Việt Nam và Trung Quốc, được khởi xướng bởi Philippines, đã vi phạm quy tắc bất thành văn của ASEAN là tránh các cuộc đàm phán song phương với Trung Quốc, vì thế làm suy yếu ASEAN và có nguy cơ nhượng bộ lãnh thổ của Philippines. Phía Philippines đã nhận được một số khoản vay vốn chắp vá không rõ ràng từ phía Trung Quốc. Hợp tác kinh tế song phương tương tự xảy ra vào năm 2006 khi Philippines tìm kiếm viện trợ của Trung Quốc. Trong khi Ngân hàng Thế giới đã chuẩn bị cho Philippines vay khoảng 200 triệu USD và cho Nhật Bản vay 1 tỉ USD, thì Trung Quốc đã nhảy vào với đề nghị cho vay 2 tỉ đô một năm cho đến năm 2010 từ Ngân hàng Xuất nhập khẩu của nước này. Khoản viện trợ này không có các điều kiện ràng buộc như các khoản viện trợ của Ngân hàng phương Tây, dễ dẫn đến tham nhũng hơn và để Trung Quốc có thể tự thầu khoán và sử dụng lực lượng lao động của mình. Tuy nhiên, những dự án khác khởi xướng bởi Tổng thống Philippines lúc đó là Arroyo bao gồm mạng lưới băng thông rộng quốc gia và dự án đường sắt phía Bắc mỗi dự án được viện trợ tài chính qua các khoản cho vay mềm của Trung Quốc. Mặc dù các học giả, công chúng, những người lập pháp đối lập và các tòa án cố gắng để xóa bỏ các thỏa thuận này thì một số thỏa thuận vẫn còn tồn tại và Trung Quốc từng bước tiến gần hơn tới việc bắt Philippines phải lệ thuộc.

Đối với trường hợp Campuchia cũng tương tự Philippines. Đây là hai nước đã có sự chuyển lập trường chóng mặt đối với Trung Quốc. Philippines chuyển từ đối đầu sang hợp tác, gần gũi với Trung Quốc. Campuchia thì đã ngả hẳn về Trung Quốc khi công khai tuyên bố ủng hộ lập trường của Trung Quốc về Biển Đông và ngăn ASEAN ra tiếng nói chung về vấn đề này. Trung Quốc đã vượt Mỹ trở thành đối tác thương mại chính của Campuchia trong năm 2014, và có thể điều này sẽ tiếp tục được duy trì. Trung Quốc đã làm lu mờ các quốc gia khác trong sự phát triển chính trị và kinh tế của Campuchia. Koh Pich, hay Đảo Kim Cương, là một hòn đảo đầy bùn với diện tích khoảng 68 ha, cách đây không lâu chỉ được một vài người làm vườn nghèo khó chọn là nhà. Ngày nay, Diamond Island City đã được chuyển mình bởi các nhà hàng ven sông, các khối văn phòng, chung cư cao tầng, căn hộ dịch vụ, trường học quốc tế và các cộng đồng có thị trường hạng sang. Năm 2017, Campuchia đã bãi bỏ một chương trình viện trợ quân sự kéo dài đã lâu của Mỹ, đồng thời nâng cấp hoạt động phối hợp và huấn luyện với quân đội Trung Quốc.

Thu hút bằng những khoản tín dụng “ưu đãi” mà thực chất là các khoản vay nợ “có điều kiện”

Tháng 7/2016, Tòa trọng tài theo Phụ lục VII của Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS) đã đưa ra phán quyết chống lại hầu như gần hết các yêu sách của Trung Quốc. Tòa chỉ trích Trung Quốc ngăn cản Philippines tiếp cận Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của mình. Tuy nhiên, Trung Quốc không ngăn chặn các nước bày tỏ quan điểm ủng hộ các quyết định của tòa, mà còn tạo ra một cú xoay chuyển ngoạn mục khi thuyết phục vị Tổng thống mới của Philippines là ông Duterte ngăn chặn các chỉ trích từ phía ASEAN về việc xây dựng đảo của Trung Quốc. Tổng thống Duterte đã dẫn ra các khoản vay hàng tỉ USD từ phía Trung Quốc nhưng đó là cái giá rất nhỏ để đạt được kiểm soát Vùng đặc quyền kinh tế của Philippines, đặc biệt là khi các khoản nợ này phải được trả lại hoặc Trung Quốc sẽ tiến hành chiếm hữu các tài sản khác quan trọng của Philippines. Dưới thời Duterte, Philippines đã trở nên bạc nhược đến nỗi nước này đã dừng thi công trên một bãi cát gần đảo Thị Tứ do Philippines chiếm đóng, đảo tự nhiên lớn thứ hai của Trường Sa. Dù lập luận của Philippines là gì đi nữa thì cũng không thỏa đáng và càng làm cho cuộc tấn công của Trung Quốc trên Biển Đông và đối với trật tự thế giới tự do diễn ra mạnh hơn.

Sử dụng thế mạnh, sức hấp dẫn về thị trường để tạo ra sức ép về kinh tế đối với các nước

Với một thị trường rộng lớn nhất trên thế giới, Trung Quốc đã phát huy thế mạnh này để thúc đẩy sự thèm muốn lợi ích xuất nhập khẩu từ các nước. Với ASEAN, vào năm 2003, Trung Quốc trở thành cường quốc đầu tiên gia nhập Hiệp ước thân thiện và Hợp tác tại Đông Nam Á ký kết năm 1976. Trước đó một năm, Trung Quốc và ASEAN ký kết Tuyên bố về quy tắc ứng xử của các bên trên Biển Đông với các bên yêu sách đối với Trường Sa và những khu vực chống lấn bên ngoài. Năm 2017, sau trì hoãn kéo dài 15 năm cho phép Trung Quốc giành kiểm soát trên Biển Đông, Trung Quốc đã tuyên bố “thỏa thuận khung” cho Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC) theo sau Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC). Rõ ràng, Trung Quốc có thể thao túng quyền tiếp cận vào thị trường của mình hơn các nước dân chủ khác bởi vì các điều luật ở Trung Quốc rất yếu và các nhà lãnh đạo dễ dàng thay đổi luật pháp hoặc sử dụng hệ thống quan liêu để thay đổi các quy tắc theo ý muốn. Một số ví dụ gần đầy như việc cấm các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước thuê các công ty tư vấn nước ngoài và cấm các cơ quan chính phủ mua hệ điều hành mới nhất của Microsoft, điều này cho thấy  những nguy cơ mà các công ty nước ngoài sẽ phải đối mặt khi đầu tư vào Trung Quốc. Các hành động của Trung Quốc trong việc hạn chế xuất khẩu đất hiếm và hạn chế nhập khẩu chuối Philippines đã làm rõ hơn cách tiếp cận ép buộc. Việc bắt nạt về kinh tế thường xảy ra đồng thời với thái độ không nhân nhượng và bác bỏ các thể chế tự do.

Hiện nay, Trung Quốc đang tăng cường các mối quan hệ song phương với các nước ASEAN như Philippines, Campuchia, Indonesia, Malaysia để thúc đẩy những tính toán chiến lược của nước này. Đây sẽ tiếp tục là những thách thức không hề nhỏ cho sự đoàn kết, thống nhất của ASEAN trong các vấn đề an ninh khu vực, đặc biệt là đối với tranh chấp Biển Đông.

RELATED ARTICLES

Tin mới