Biển Đông là nơi tập trung nhiều tuyến giao thông hàng hải quốc tế quan trọng của khu vực và thế giới. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng cướp biển, buôn lậu, đánh bắt cá trái phép, phá huỷ môi trường biển ngày càng phổ biến ở Biển Đông. Là thành viên tích cực của Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS), Việt Nam đã chủ động thúc đẩy hơp tác với các nước trong phòng chống tội phạm biển.
Tội phạm biển hiện nay là vấn đề chung của tất cả các nước trong và ngoài khu vực
Có nhiều loại hình tội phạm biển khác nhau hiện nay ở Biển Đông như: cướp biển và cướp có vũ trang; khủng bố; buôn lậu (hàng hóa, buôn người, động thực vật quý hiếm, buôn vũ khí và chất cấm); những hành vi vi phạm chủ quyền và quyền chủ quyền của quốc gia ven biển như đánh bắt cá trái phép, khai thác trái phép tài nguyên thiên nhiên; những hành vi vi phạm luật pháp quốc tế về các vấn đề như bảo vệ môi trường biển.
Ở khu vực Đông Nam Á và Biển Đông hiện nay, cướp biển và buôn lậu là hai vấn đề tội phạm nổi cộm. Trong giai đoạn 2008 – 2017, chỉ tính riêng khu vực Đông Nam Á đã xảy ra 1,124 vụ cướp biển (chiếm 83% tổng số vụ cướp biển xảy ra trong khu vực châu Á), trong đó có tới 1,002 vụ thành công, chỉ có 122 vụ thất bại. Số các vụ cướp biển chủ yếu xảy ra ở vùng biển Indonesia và ở Eo biển Malacca của Singapore. Vị trí các vụ cướp biển được chỉ ra cũng cho thấy, các vụ cướp biển chủ yếu tập trung ở ven bờ, thuộc quyền quản lý của các quốc gia ven biển. Riêng khu vực Biển Đông, tính từ năm 2008 đến năm 2017 đã xảy ra 193 vụ cướp biển, trong đó số vụ cướp biển xảy ra năm 2017 tăng gấp đôi so với năm 2016. Liên quan đến vấn đề buôn lậu trên biển, lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam trong thời gian qua đã phối hợp với Bộ đội Biên phòng và Hải quan, phát hiện và bắt giữ, xử lý hàng trăm trường hợp liên quan đến buôn lậu dầu mỏ, than đá, thuốc phiện và một số hàng hoá khác. Về buôn bán thuốc phiện, trong 10 năm qua, Cảnh sát biển Việt Nam đã phát hiện tổng cộng 21 kg heroin và các sản phẩm ma tuý khác, dẫn đến truy tố 66 vụ án hình sự về buôn ma tuý. Về buôn bán dầu, từ năm 2012 đến năm 2015, Cảnh sát biển Việt Nam đã phát hiện gần 22 triệu tấn dầu buôn bán lậu vận chuyển trong vùng biển Việt Nam. Số lượng các vụ buôn bán dầu lậu có xu hướng gia tăng trong vùng biển Việt Nam, ví dụ như ngày 29/1/2016, Cục Hải quan Việt Nam đã bắt giữ một tàu chiến Christina bơm một lượng xăng khổng lồ là hơn 9 nghìn tấn (gấp 5 lần so với số lượng quy định trong giấy tờ). Ngày 21/4/2017, Việt Nam đã bắt giữ bốn tàu tiến hành buôn bán dầu trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Tại thời điểm bắt giữ, có đến 3 tàu chở 1,2 triệu lít dầu không có giấy tờ pháp lý về nguồn gốc hàng hoá.
Hoạt động hợp tác phòng chống tội phạm biển của Việt Nam phù hợp với luật pháp quốc tế và các thỏa thuận ký kết giữa các nước
Cơ sở pháp lý đầu tiên chính là Nghị quyết 2625 của Đại hội đồng Liên hợp quốc về các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế. Đây được coi là lời giải thích đầy đủ về nghĩa vụ hợp tác giữa các quốc gia theo Hiến chương Liên hợp quốc như sau: “Các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau, bất kể sự khác biệt về hệ thống chính trị, kinh tế và xã hội, nhằm duy trì hoà bình và an ninh quốc tế và để thúc đẩy ổn định và tiến bộ kinh tế quốc tế, sự thịnh vượng chung của các quốc gia và hợp tác quốc tế mà không bị ảnh hưởng của sự mâu thuẫn xuất phát từ những khác biệt như vậy”. Quy định trên tuy chỉ đề cập chung chung đến nghĩa vụ hợp tác giữa các quốc gia nhưng đã trở thành kim chỉ nam và được cụ thể hoá trong các ngành luật khác nhau, cụ thể nghĩa vụ hợp tác trong lĩnh vực an ninh biển được đề cập đến trong UNCLOS 1982 mà Việt Nam là thành viên. Cụ thể, UNCLOS 1982 quy định nghĩa vụ hợp tác giữa các quốc gia để trấn áp nạn cướp biển (Điều 100) và nghĩa vụ hợp tác chung giữa các quốc gia trong Vùng biển kín và nửa kín (Phần IX). Cụ thể, Điều 100 của UNCLOS 1982 quy định “tất cả các quốc gia hợp tác với nhau, bằng mọi khả năng của mình, để trấn áp cướp biển trên biển cả hay ở bất kỳ nơi nào khác không thuộc quyền tài phán của quốc gia nào”. Như vậy, điểm đáng chú ý là, định nghĩa cướp biển này lại chỉ áp dụng đối với loại tội phạm này ở những vùng biển quốc tế hay những khu vực nằm ngoài thẩm quyền của bất cứ quốc gia nào. Do vậy, đã giới hạn việc áp dụng của nó đối với những hành động tương tự trong các vùng biển lãnh hải và các vùng biển gần bờ của các quốc gia.
Xuất phát từ thực tiễn có rất nhiều vụ cướp biển diễn ra tại các vùng biển thuộc thẩm quyền của quốc gia ven biển, Tổ chức Hàng hải Quốc tế (IMO) đã giữ nguyên định nghĩa về cướp biển của UNCLOS 1982, đồng thời bổ sung thêm khái niệm “cướp có vũ trang đối với tàu thuyền” (armed robbery) và đã trở thành định nghĩa thích hợp phổ biến nhất cho mục tiêu của các hoạt động chống lại nạn cướp biển. Định nghĩa này hiện được Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc chấp nhận và đưa vào Hiệp định Hợp tác Khu vực về Chống nạn cướp biển (RECAAP). Phát triển dựa trên UNCLOS 1982, Luật Biển Việt Nam 2012 quy định tại Điều 6 “Nhà nước đẩy mạnh hợp tác quốc tế về biển với các nước, các tổ chức quốc tế trên cơ sở pháp luật quốc tế, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng, các bên cùng có lợi”, trong đó bao gồm “hợp tác trong việc phòng, chống tội phạm trên biển”. Tất cả những quy định trên trở thành cơ sở pháp lý cho việc Việt Nam thúc đẩy hợp tác quốc tế trong việc chống lại các loại tội phạm trên biển nhằm hướng tới một vùng biển hòa bình và ổn định.
Kết quả hợp tác quốc tế trong phòng chống tội phạm biển của Việt Nam với các nước hiện nay
Dựa trên cơ sở pháp lý về việc hợp tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm biển được quy định trong các Công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và Luật Biển Việt Nam, Việt Nam đã nỗ lực thúc đẩy các hợp tác song phương và đa phương trong lĩnh vực phòng, chống tội phạm với các quốc gia ven biển. Các lực lượng thực thi pháp luật của Việt Nam đã hợp tác với các lực lượng thực thi pháp luật của các nước như Trung Quốc, Philippines, Indonesia, Malaysia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Mỹ.
(1) Với Trung Quốc, hai nước đã thúc đẩy cơ chế tuần tra chung hiệu quả ở khu vực Vịnh Bắc Bộ trên cơ sở ranh giới biển đã được phân định. Lực lượng Cảnh sát biển của hai nước thường xuyên tiến hành tuần tra chung, diễn tập, trao đổi và chia sẻ thông tin về các hoạt động tội phạm trên biển. Kể từ tháng 1/2016, hai bên đã bắt đầu cơ chế trao đổi thông tin hàng tháng về tuần tra, sự cố an toàn hàng hải và đánh bắt cá trái phép. Ngày 27/6/2016, hai bên Việt-Trung đã ký Biên bản ghi nhớ (MOU) nhằm thúc đẩy hợp tác về phòng chống tội phạm trên biển, tuần tra chung và tìm kiếm cứu nạn. Theo biên bản ghi nhớ được ký kế, hai bên đã chỉ định đầu mối quốc gia duy trì thông tin liên lạc 24/7. Với Philippines, từ ngày 23/8/2013, hai bên đã ký Biên bản ghi nhớ nhằm thiết lập đường dây nóng duy trì thông tin liên lạc 24/7 giữa lực lượng Cảnh sát biển hai bên. Biên bản ghi nhớ đã phát huy tác dụng trong việc thường xuyên được sử dụng để phối hợp trực tiếp với các hoạt động giám sát hành vi đánh cá bất hợp pháp, cướp biển, buôn lậu hàng hoá trên biển, nhập cư trái phép.
(2) Với Indonesia, trong chuyến thăm chính thức của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Phú Trọng, đến Indonesia vào tháng 8/2017, Cảnh sát biển Việt Nam và Cơ quan An ninh Hàng hải của Indonesia (BAKAMLA) đã ký một Nghị định thư nhằm tăng cường hợp tác giữa hai bên, qua đó thiết lập cơ chế hợp tác giữa lực lượng cảnh sát biển hai nước. Trên thực tế, lực lượng cảnh sát biển Indonesia và Cảnh sát biển Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ trong một loạt các sự vụ liên quan đến tội phạm biển và kết hợp chặt chẽ trong việc hợp tác về lĩnh vực huấn luyện, nâng cao năng lực và trao đổi thông tin.
(3) Với Malaysia, mặc dù hai bên chưa thiết lập cơ chế hợp tác song phương liên quan đến hợp tác an ninh biển, song trên thực tế lực lượng cảnh sát biển Việt Nam đã làm việc chặt chẽ với các đối tác Malaysia trong nhiều trường hợp, điển hình là vụ Sunrise và Orkim Harmony. Trong trường hợp đầu tiên, Cảnh sát biển Việt Nam đã hỗ trợ thành công việc tìm kiếm tàu chở dầu bị bắt cóc của Malaysia, đã bắt giữ những tên cướp biển và đưa chúng cho Malaysia để xét xử. Trong vụ Orkim Harmony vào tháng 6/2015, Cảnh sát biển Việt Nam cũng phối hợp với Cảnh sát biển Malaysia tìm kiếm và bắt giữ những tên cướp biển có vũ trang khi họ chạy trốn đến vùng biển của đảo Thổ Chu, Việt Nam. Tám tên cướp biển sau đó bị dẫn độ sang Malaysia để điều tra và xét xử.
(4) Trong khuôn khổ ASEAN, lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam đã tham gia và ủng hộ đề xuất thành lập Diễn đàn Cảnh sát biển ASEAN làm nền tảng cho sự hợp tác và phối hợp giữa các lực lượng bảo vệ bờ biển ASEAN và các cơ quan thực thi luật biển. Ngoài ra, tại Hội nghị Quan chức Cao cấp ASEAN về Tội phạm Xuyên quốc gia (SOMTC) tổ chức tháng 5/2002 ở Kuala Lumpur, các quan chức cấp cao ASEAN tham dự Hội nghị đã nhất trí thông qua Chương trình Hành động Toàn diện để chống lại các tội phạm xuyên quốc gia (POACTC) nhằm khuyến khích các quốc gia thành viên ASEAN mở rộng các nỗ lực chống lại các loại tội phạm xuyên quốc gia từ cấp độ quốc gia và song phương đến khu vực.
(5) Ở cấp độ châu Á, Việt Nam là thành viên của Hội nghị những nhà đứng đầu các cơ quan thực thi pháp luật trên biển của các nước Châu Á (HACGAM) bao gồm 20 thành viên bảo vệ bờ biển trong khu vực. Việt Nam cũng tổ chức thành công cuộc họp lần thứ 7 của HACGAM và thúc đẩy các cuộc thảo luận mở rộng về chủ đề “Tăng cường hợp tác thiết thực, trao đổi thông tin và bảo đảm an ninh và an toàn hàng hải”.
Bên cạnh đó, Cảnh sát biển Việt Nam cũng là đầu mối của Trung tâm chia sẻ thông tin được thành lập theo ReCAAP vào năm 2006 với mục đích thu thập thông tin kịp thời và chính xác về tình trạng cướp biển và cướp có vũ trang trên biển. Là một đầu mối, Cảnh sát biển Việt Nam đã duy trì liên lạc 24/7 với Trung tâm chia sẻ thông tin của ReCAAP và các thành viên ReCAAP khác để kịp thời cảnh báo và ứng phó trong trường hợp xảy ra sự cố. Khi nhận được thông tin, Cảnh sát biển Việt Nam đều phối hợp với các cơ quan cảng, thông báo cho chủ tàu và các công ty quản lý về các hành vi tội phạm trong vùng biển của Việt Nam và yêu cầu các chủ tàu của các nước áp dụng các biện pháp phòng tránh phù hợp để đảm bảo không có vấn đề xảy ra khi các tàu hoạt động trong vùng biển Việt Nam và khi tàu Việt Nam hoạt động trong các vùng biển quốc tế, đặc biệt là trong vùng nước nguy hiểm. Ngoài ra, Việt Nam cũng là thành viên của Diễn đàn Hải quân Tây Thái Bình Dương (WPNS) được thành lập từ năm 1988 đến nay đã có sự tham gia của 20 thành viên và 4 quan sát viên. WPNS nhằm mục tiêu tăng cường hợp tác và khả năng hoạt động cùng nhau cũng như xây dựng lòng tin giữa hải quân các nước thông qua việc đưa ra một khung hoạt động nhằm thúc đẩy thỏa luận về các vấn đề biển mà các quốc gia cùng quan tâm, trao đổi thông tin và tập huấn chung.
Nhìn chung, hợp tác giữa các quốc gia đang trở thành xu thế hiện nay, nhất là trong bối cảnh căng thẳng leo thang xung quanh các tranh chấp chủ quyền và quyền chủ quyền giữa các bên liên quan. Song trong bối cảnh tranh chấp gay gắt ở Biển Đông, hợp tác giữa các lực lượng thực thi pháp luật chống tội phạm hiện đang gặp nhiều thách thức, bao gồm việc các lực lượng dân sự và lực lượng thực thi luật biển lại được một số nước sử dụng như những công cụ chính trị để khẳng định chủ quyền và đơn phương thực thi yêu sách của các nước. Bên cạnh đó là sự suy giảm lòng tin giữa các nước trong khu vực do một số nước theo đuổi và thực thi các yêu sách quá đáng không phù hợp với UNCLOS. Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến mất lòng tin, bất mãn, xảy ra nhiều va chạm, đụng độ giữa lực lượng thực thi pháp luật ở trên Biển Đông, do đó tạo ra thách thức rất lớn trong việc nỗ lực thúc đẩy hợp tác để hạn chế các mối đe dọa từ tội phạm biển. Cuối cùng là sự thiếu được ranh giới biển được phân định rõ ràng, qua đó xác định thẩm quyền và quyền tài phán cụ thể của các bên liên quan. Vì vậy, các nước trong khu vực cần chung tay và nỗ lực hơn nữa để giữ gìn và xây dựng khu vực Biển Đông hòa bình, hợp tác và ổn định.