Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS) quy định rất rõ về việc các nước, các tổ chức tiến hành nghiên cứu khoa học biển, xuất phát từ nhu cầu và mục đích chính đáng. Tuy nhiên, những năm qua Trung Quốc đã lợi dụng các nội dung của UNCLOS về hoạt động nghiên cứu khoa học biển để phục vụ cho việc theo đuổi, đạt được các yêu sách chủ quyền phi lý của nước này ở Biển Đông.
Quy định của UNCLOS về hoạt động nghiên cứu khoa học biển
Từ Điều 238 đến Điều 241 của UNCLOS quy định về hoạt động nghiên cứu khoa học biển. Cụ thể: Điều 238 quy định về quyền tiến hành các cuộc nghiên cứu khoa học biển, trong đó xác định tất cả các quốc gia, bất kể vị trí địa lý thế nào, cũng như các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, đều có quyền tiến hành các cuộc nghiên cứu khoa học biển, với điều kiện tôn trọng các quyền và nghĩa vụ của các quốc gia khác như đã đuợc quy định trong Công ước. Điều 239 quy định về nghĩa vụ tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu khoa học biển. Trong đó, quy định các quốc gia và tổ chức quốc tế có thẩm quyền khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai và chỉ đạo công tác nghiên cứu khoa học biển theo đúng Công uớc.
Tại Điều 240, UNCLOS quy định các nguyên tắc chung chi phối việc chỉ đạo công tác nghiên cứu khoa học biển, trong đó xác định công tác nghiên cứu khoa học biển phải phục tùng các nguyên tắc sau đây: Công tác này được tiến hành nhằm vào những mục đích hoàn toàn hòa bình. Công tác này được tiến hành bằng cách dùng các phương pháp và phương tiện khoa học thích hợp phù hợp với Công uớc. Công tác này không cản trở một cách vô lý những việc sử dụng biển hợp pháp khác phù hợp với Công uớc và nó phải được quan tâm đến trong các việc sử dụng này.Công tác này được tiến hành theo đúng mọi quy định tương ứng đuợc thông qua để thi hành Công ước, kể cả các quy định nhằm bảo vệ và giữ gìn môi trường biển.
Điều 241 quy địnhviệc không thừa nhận công tác nghiên cứu khoa học biển với tư cách là cơ sở pháp lý cho một yêu sách nào đó. Công tác nghiên cứu khoa học biển không tạo ra cơ sở pháp lý cho một yêu sách nào đối với một bộ phận nào đó của môi trường biển hay của các tài nguyên của nó.
TQ đang lợi dụng UNCLOS để phục vụ yêu sách đòi chủ quyền ở Biển Đông
Trung Quốc đã lợi dụng và tìm cách hướng lái Điều 238 quy định về “quyền tiến hành các cuộc nghiên cứu khoa học biển, trong đó xác định tất cả các quốc gia, bất kể vị trí địa lý thế nào, cũng như các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, đều có quyền tiến hành các cuộc nghiên cứu khoa học biển, với điều kiện tôn trọng các quyền và nghĩa vụ của các quốc gia khác như đã được quy định trong Công ước”. Nước này cho rằng hoạt động nghiên cứu khoa học biển của mình ở Biển Đông là chính đáng và là hoạt động bình thường đơn thuần là khoa học. Vì vậy, nước này đã đưa tàu thuyền đến các vùng biển tranh chấp, thậm chí xâm phạm vùng biển các nước để tiến hành cái gọi là nghiên cứu khoa học biển. Để tránh chỉ trích từ các nước, Trung Quốc đã thúc đẩy hoạt động hợp tác nghiên cứu khoa học biển. Chỉ tính từ cuối năm 2017 đến nay, Trung Quốc đã chủ động triển khai các hoạt động hợp tác quốc tế về nghiên cứu, khảo sát khoa học biển với nhiều nước khu vực và có thể được coi là một thành công về chiến lược của Trung Quốc. Với Philippines, Trung Quốc đã công khai việc đưa tàu nghiên cứu khoa học tới khu vực Benham Rise để cùng với các nhà khoa học Philippines tiến hành các hoạt động nghiên cứu, khảo sát đại dương tại khu vực này theo thỏa thuận đạt được giữa Chính phủ hai nước (15/2/2018). Trung Quốc ca ngợi hai bên sẽ tiếp tục tiến hành một số hoạt động nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên chung ở Biển Đông. Với Myanmar, cùng với các khoản hỗ trợ đầu tư về kinh tế, trong lĩnh vực khoa học, Trung Quốc (17/1/2018) đã lần đầu tiên cử tàu khảo sát “Hướng Dương Hồng 3” tới Vùng đặc quyền kinh tế của Myanmar tại Ấn Độ Dương để cùng với các nhà khoa học Myanmar tiến hành khảo sát và nghiên cứu khoa học biển với hành trình trải dài hơn 680 hải lý. Với Pakistan, Trung Quốc đã lần đầu tiên cử tàu khảo sát “Thực nghiệm 3” tới khu vực Makran của Pakistan để phối hợp với các nhà khoa học nước này triển khai dự án nghiên cứu khảo sát khoa học biển (13/1-7/2/2018), trong phạm vi 700km và ở độ sâu 3.000m. Với Pháp, Trung Quốc đã phối hợp với Tàu Tara của Pháp tiến hành khảo sát khoa học về sự thay đổi của hệ sinh thái và các bãi san hô tại khu vực gần đảo Hải Nam, Hồng Công, Hạ Môn và Thượng Hải.
Tại Điều 241 UNCLOS quy định rõ rằng việc không thừa nhận công tác nghiên cứu khoa học biển với tư cách là cơ sở pháp lý cho một yêu sách nào đó. Công tác nghiên cứu khoa học biển không tạo ra cơ sở pháp lý cho một yêu sách nào đối với một bộ phận nào đó của môi trường biển hay của các tài nguyên của nó. Tuy nhiên, Trung Quốc đã sử dụng các kết quả nghiên cứu khoa học để củng cố và đưa ra các tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông. Hồi đầu năm 2018, Trung Quốc đã gửi kết quả khảo sát lên Tổ chức Thủy văn quốc tế để đề nghị đặt tên gọi và công nhận chủ quyền cho 05 cấu trúc trong vùng biển Benham Rise. Sau đó,Hội đồng Bản đồ và Khoáng sản quốc gia Philippines đã phải đề nghị Bộ Ngoại giao Philippines kiến nghị Tổ chức Thủy văn quốc tế hủy các tên gọi do Trung Quốc đặt.
Trung Quốc còn sử dụng danh nghĩa hợp tác nghiên cứu khoa học để xoa dịu quan ngại của các nước về các hoạt động đơn phương của Trung Quốc ở Biển Đông, thông qua hoạt động này để giành vai trò dẫn dắt trong “hợp tác cùng khai thác” theo chủ trương của Trung Quốc, đồng thời tìm cách củng cố các bằng chứng đòi hỏi “chủ quyền” tại các vùng biển tranh chấp. Giới chuyên gia quốc tế cũng cho rằng việc Trung Quốc thúc đẩy hoạt động hợp tác nghiên cứu khảo sát, thăm dò tài nguyên với các nước không chỉ nhằm cạnh tranh, mở rộng ảnh hưởng của Trung Quốc ở nhiều khu vực biển quốc tế trong đó có Tây Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, hoạt động này còn nhằm tạo tiền đề thúc đẩy mở rộng hợp tác trên biển giữa Trung Quốc với các nước, qua đó hỗ trợ đắc lực cho việc triển khai sáng kiến “Con đường Tơ lụa trên biển thế kỷ 21” và góp phần giúp Trung Quốc hiện thực hóa mục tiêu trở thành “Cường quốc biển” vào giữa thế kỷ 21. Thông qua việc triển khai các phương tiện tham gia, Trung Quốc không chỉ tìm kiếm được sự gắn kết về chính trị, kinh tế với các nước, mà còn khảo sát được địa hình, địa chất đáy biển phục vụ cho các hoạt động quân sự của nước này, nhất là để xây dựng phương án tác chiến của tàu ngầm và tàu sân bay, thu thập tin tức về bố trí lực lượng của các nước. Ngoài ra, hoạt động hợp tác khảo sát nghiên cứu khoa học biển với các nước còn giúp Trung Quốc xây dựng hình ảnh là “cường quốc biển có trách nhiệm trong bảo vệ môi trường, ứng phó thiên tai và cùng các nước xây dựng “Cộng đồng chung vận mệnh”.
Trung Quốc còn thường sử dụng danh nghĩa các hoạt động khảo sát, khảo cổ ở Biển Đông để tạo dư luận và củng cố các tuyên bố chủ quyền. Như việc khảo cổ ở Biển Đông, Trung Quốc luôn cho rằng nơi nào có hiện vật nguồn gốc Trung Hoa, nơi đó là vùng lãnh thổ do người Trung Hoa chiếm cứ và khai thác, bởi họ có ý đồ sẽ hậu thuẫn cho mục tiêu dịch chuyển không gian hàng hải đến toàn bộ dân chúng. Điều đó cho thấy, khảo cổ học dưới nước mang ý nghĩa chính trị trong vấn đề chủ quyền biển đảo quốc gia. Chính vì vậy, mục đích của Trung Quốc tập trung vào khảo cổ học không chỉ là bảo tồn văn hóa, mà quan trọng hơn là nâng cao địa vị cường quốc hải dương của Trung Quốc với thế giới và từng bước độc chiếm Biển Đông. Khảo cổ giúp Trung Quốc tìm kiếm các chứng cứ lịch sử, yêu cầu UNESCO công nhận “Con đường tơ lụa trên biển” của họ là di sản văn hóa thế giới. Nó thực chất là thủ đoạn ngụy tạo những chứng cứ lịch sử về sự hiện diện, khai phá của cư dân Trung Quốc trên các quần đảo. Việc đưa hàng loạt các tàu khảo sát, khảo cổ và thực nghiệm xuống biển Đông cho thấy, Trung Quốc đang không ngừng đầu tư chế tạo các tàu phục vụ cho hoạt động nghiên cứu lịch sử và khoa học trái phép, nhằm hiện thực hóa âm mưu hết sức nguy hiểm là tranh đoạt chủ quyền lãnh thổ và vơ vét tài nguyên ở 80% diện tích Biển Đông. Các tàu khảo sát vật lý địa cầu dưới đáy biển này đóng vai trò như những tên “lính tiên phong”, sẽ tiến hành thăm dò, lấy mẫu các tầng đất đá, nghiên cứu cấu tạo các tầng địa chất dưới đáy biển để tìm ra những dấu hiệu cho thấy sự hiện hiện của các mỏ dầu, tạo điều kiện thuận lợi cho các giàn khoan tiến hành thăm dò chất lượng và trữ lượng dầu trong các mỏ ngầm dưới đáy biển. Điều đó cho thấy, chính quyền Bắc Kinh đã lộ rõ chân tướng của một kẻ luôn muốn độc chiếm Biển Đông, nhằm khai thác triệt để nguồn tài nguyên dầu khí phong phú ở vùng biển này, phục vụ cho cơn khát năng lượng của một nền kinh tế hiện đang phát triển quá nóng của Trung Quốc.
Một khía cạnh nữa mà Trung Quốc lợi dụng UNCLOS trong hoạt động nghiên cứu khoa học biển là trong lĩnh vực truyền thông để biện minh cho ý đồ của mình. Trung Quốc viện dẫn các điều khoản của UNCLOS để khẳng định chủ quyền ở Biển Đông và tính chính danh trong hoạt động nghiên cứu khoa học biển. Báo chí và giới chức Trung Quốc tích cực tuyên truyền, bao biện về mục đích, ý nghĩa và tầm quan trọng của hợp tác quốc tế trong hợp tác nghiên cứu khảo sát khoa học biển, khi cho rằng hoạt động hợp tác nghiên cứu khảo sát khoa học biển của Trung Quốc với các nước là một nội dung quan trọng được Đảng Cộng sản Trung Quốc đề ra trong Kế hoạch 5 năm lần thứ 13 (2016-2020), nhằm giúp Trung Quốc từng bước thực hiện mục tiêu xây dựng “Cường quốc biển”, phục vụ triển khai “Con đường tơ lụa trên biển” và cùng với các nước khác xây dựng một “Cộng đồng chung vận mệnh”. Nhiều bài báo ca ngợi rằng hoạt động hợp tác khảo sát khoa học biển là nỗ lực của Trung Quốc trong việc chủ động chia sẻ kinh nghiệm với các nước để góp phần bảo vệ môi trường, nâng cao năng lực ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng ngừa thiên tai, phát hiện và khai thác các nguồn tài nguyên biển nhằm mang lại lợi ích cho các nước.