Wednesday, November 20, 2024
Trang chủSự thật Trung HoaChiến lược an ninh biển châu Á - Thái Bình Dương của...

Chiến lược an ninh biển châu Á – Thái Bình Dương của Mỹ đặc biệt chú trọng tới vấn đề Biển Đông

Việc hiện đại hóa quân đội nhanh chóng trên khắp khu vực châu Á – Thái Bình Dương đã làm gia tăng một cách đáng kể khả năng xảy ra những tính toán sai lầm hay xung đột nguy hiểm trong lĩnh vực biển. Nhiều nước cũng đang tăng cường đáng kể các khả năng của lực lượng thực thi pháp luật trên biển của mình. Những phương tiện này đã trở nên ngày càng có liên quan khi các nước, đặc biệt là Trung Quốc, đang sử dụng chúng để khẳng định chủ quyền đối với các khu vực tranh chấp.

Tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông

Các cuộc tranh chấp lãnh thổ và trên biển ở biển Biển Đông xoay quanh 3 vấn đề chủ yếu: (1) các tuyên bố chủ quyền lãnh thổ cạnh tranh nhau giữa các bên tuyên bố chủ quyền, (2) các tuyên bố chủ quyền trên biển cạnh tranh nhau giữa các bên tuyên bố chủ quyền, và (3) các tuyên bố chủ quyền quá mức trên biển được khẳng định bởi một số bên tuyên bố chủ quyền. Đối với các tuyên bố chủ quyền lãnh thổ cạnh tranh nhau, có 6 bên tuyên bố chủ quyền đối với các cấu trúc địa hình ở biển Biển Đông: Brunei, Trung Quốc, Malaysia, Philippines, Đài Loan và Việt Nam.

Có 3 tranh chấp chủ yếu về chủ quyền lãnh thổ: Thứ nhất là tranh chấp giữa Trung Quốc, Đài Loan và Việt Nam về chủ quyền quần đảo Hoàng Sa, quần đảo mà Trung Quốc đã chiếm đóng trái phép kể từ năm 1974. Thứ hai là tranh chấp giữa Trung Quốc, Đài Loan và Philippines về bãi cạn Scarborough. Thứ ba là tranh chấp giữa nhiều bên tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa, quần đảo gồm hơn 200 cấu trúc địa lý. Trung Quốc, Đài Loan và Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với tất cả các cấu trúc địa hình của quần đảo Trường Sa, trong khi đó Brunei, Malaysia và Philippines chỉ tuyên bố chủ quyền đối với các cấu trúc địa hình nhất định trong nhóm đảo này. Việt Nam và Malaysia vẫn chưa phân định hoàn toàn các tuyên bố chủ quyền trên biển ở biển Biển Đông.

Đối với các tuyên bố chủ quyền trên biển cạnh tranh nhau, các bên tuyên bố chủ quyền đòi cả chủ quyền, quyền chủ quyền liên quan đến các nguồn tài nguyên và các tuyên bố về quyền tài phán đối với những khu vực biển bên trong biển Biển Đông. Một vài trong số các bên tuyên bố chủ quyền này đã làm rõ bản chất và quy mô của các bên tuyên bố chủ quyền trên biển của họ, nhưng các bên khác thì không. Chẳng hạn, mặc dù Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) được tuyên bố của Indonesia mở rộng vào trong biển Biển Đông, nhưng Chính phủ Indonesia hiện tại không thừa nhận cái gọi là “đường 9 đoạn” của Trung Quốc (chồng lấn với EEZ đó) và cũng không tự coi mình là một bên tuyên bố chủ quyền trong bất kỳ tranh chấp trên biển nào có liên quan đến biển Biển Đông.

Đối với các tuyên bố chủ quyền quá mức trên biển, một số bên tuyên bố chủ quyền bên trong khu vực này đã khẳng định các tuyên bố chủ quyền trên biển dọc theo đường bờ biển của họ và xung quanh các cấu trúc địa hình mà không phù hợp với luật pháp quốc tế. Chẳng hạn, Malaysia tìm cách hạn chế các hoạt động quân sự của nước ngoài bên trong EEZ của nước này. Nhiều nước đã vẽ các đường cơ sở ven biển (những đường mà từ đó xác định quy mô của những quyền lợi trên biển) không phù hợp với luật quốc tế. Mặc dù Mỹ hoan nghênh những nỗ lực của Philippines và Việt Nam đưa ra các tuyên bố chủ quyền trên biển phù hợp với Công ước Luật Biển, nhưng vẫn còn nhiều việc phải làm. Phù hợp với Chính sách Tự do Hàng hải lâu đời của Mỹ, Mỹ khuyến khích tất cả các bên tuyên bố chủ quyền đưa ra các tuyên bố chủ quyền trên biển tuân thủ luật pháp quốc tế và thách thức các tuyên bố chủ quyền quá mức trên biển thông qua phản kháng ngoại giao và các hoạt động tác chiến của Mỹ.

Trung Quốc đã không xác định rõ ràng quy mô các tuyên bố chủ quyền trên biển của nước này ở biển Biển Đông. Vào tháng 5/2009, Trung Quốc đã gửi 2 công hàm tới Tổng thư ký Liên hợp quốc phản đối các hồ sơ đệ trình của Việt Nam và Malaysia (chung) và Việt Nam (riêng) lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa. Những công hàm này, trong số những thứ khác, gồm có một tấm bản đồ vẽ 9 đường đứt đoạn bao quanh các vùng biển, đảo và những cấu trúc khác trên biển Biển Đông và tạo thành một không gian biển rộng gần 2 triệu km2. Các công hàm năm 2009 cũng bao gồm một sự khẳng định của Trung Quốc rằng nước này có “chủ quyền không thể tranh cãi đối với các đảo ở biển Biển Đông và các vùng biển liền kề và có quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng biển liên quan cũng như đáy biển và tầng đất bên dưới”. Các hành động và giọng điệu của Trung Quốc đã không làm rõ đúng bản chất tuyên bố chủ quyền trên biển của nước này, kể cả việc liệu Trung Quốc có tuyên bố chủ quyền đối với tất cả các khu vực biển nằm trong “đường 9 đoạn” cũng như tất cả các cấu trúc địa hình nằm trong đó hay không.

Các nước tăng cường hiện diện quân sự trong khu vực

Việc hiện đại hóa quân đội nhanh chóng trên khắp khu vực châu Á – Thái Bình Dương đã làm gia tăng một cách đáng kể khả năng xảy ra những tính toán sai lầm hay xung đột nguy hiểm trong lĩnh vực biển. Nhiều nước cũng đang tăng cường đáng kể các khả năng của lực lượng thực thi pháp luật trên biển của mình. Những phương tiện này đã trở nên ngày càng có liên quan khi các nước, đặc biệt là Trung Quốc, đang sử dụng chúng để khẳng định chủ quyền đối với các khu vực tranh chấp.

Trung Quốc đang hiện đại hóa mọi mặt năng lực quân sự và thực thi pháp luật có liên quan đến biển, bao gồm hạm đội tàu nổi của hải quân, tàu ngầm, máy bay chiến đấu, tên lửa, các khả năng radar, và cảnh sát biển. Nước này đang phát triển các công nghệ có trình độ cao dùng để ngăn chặn sự can thiệp từ bên ngoài vào một cuộc xung đột và được thiết kế để chống lại công nghệ quân sự của Mỹ. Mặc dù việc chuẩn bị cho một cuộc xung đột tiềm tàng với Đài Loan vẫn là động lực thúc đẩy chính cho đầu tư của Trung Quốc, nhưng Trung Quốc cũng đang chú trọng vào việc chuẩn bị cho những tình huống bất ngờ ở biển Biển Đông và biển Hoa Đông. Trung Quốc nhận thấy Hải quân Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLAN) cần phải có khả năng hỗ trợ “các sứ mệnh lịch sử mới” và những nhiệm vụ tác chiến của Trung Quốc bên ngoài chuỗi đảo thứ nhất bằng các phương tiện hải quân đa nhiệm vụ, tầm xa, bền vững, được trang bị những khả năng phòng vệ vững chắc. Mặc dù số lượng chỉ là một thành phần tạo nên khả năng tổng thể, nhưng từ năm 2013 đến năm 2014, Trung Quốc đã hạ thủy nhiều tàu hải quân hơn bất cứ nước nào khác. PLAN giờ đây sở hữu số lượng tàu lớn nhất ở châu Á, với hơn 300 tàu nổi, tàu ngầm, tàu đổ bộ và tàu tuần tra.

Trung Quốc cũng đang tiến hành công cuộc hiện đại hóa MLE lớn nhất ở châu Á, cải thiện hạm đội của mình cả về số lượng lẫn chất lượng, hạm đội được thiết kế nhằm củng cố các tuyên bố chủ quyền trên biển của nước này ở biển Biển Đông và biển Hoa Đông. Hạm đội MLE của Trung Quốc, bao gồm chủ yếu các tàu thuộc lực lượng Cảnh sát biển Trung Quốc mới được thành lập, có khả năng tăng thêm 25% về quy mô và lớn hơn hạm đội của tất cả các bên tuyên bố chủ quyền khác gộp lại.

Các quốc gia châu Á – Thái Bình Dương khác cũng đang tăng cường các khả năng trên biển của họ. Nhật Bản đang cải thiện các khả năng răn đe của Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản (JSDF) và tổ chức lại quân đội và các phương tiện MLE tới các khu vực gần quần đảo Senkaku, quần đảo mà Trung Quốc cũng tuyên bố chủ quyền. Nhật Bản lên kế hoạch mua sắm và tổ chức lại các phương tiện tình báo, giám sát và do thám (ISR) tới khu vực này; nâng cấp tàu tuần tra trên biển, radar của lực lượng mặt đất và các đơn vị tên lửa; và phát triển khả năng tân công đổ bộ bên trong một lực lượng đặc nhiệm JSDF chung. Nội các Nhật Bản đã phê chuẩn một sự gia tăng khiêm tốn ngân sách của Lực lượng phòng vệ bờ biển Nhật Bản, một phần là để tài trợ cho một đơn vị tuần tra lâu dài ở Senkaku.

Không những vậy, một số quốc gia đã mở rộng việc sử dụng các phương tiện phi quân sự để thúc đẩy các tuyên bố chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền trên biển của họ tại biển Hoa Đông và biển Biển Đông. Đáng chú ý nhất là Trung Quốc đang sử dụng một loạt đều đặn các bước đi nhỏ, tăng dần để tăng cường sự kiểm soát hiệu quả của nước này đối với các khu vực tranh chấp và tránh sự leo thang lên thành xung đột quân sự. Cụ thể, Trung Quốc đang tăng cường triển khai lực lượng Cảnh sát biển Trung Quốc (CCG) để thực thi các tuyên bố chủ quyền của mình đối với các cấu trúc trên biển Hoa Đông và biển Biển Đông. Trung Quốc thích sử dụng các tàu thực thi pháp luật trên biển, do chính phủ quản lý, trong các tranh chấp này, và cho các tàu thuộc PLAN hoạt động xa hơn đường chân trời để chúng có thể sẵn sàng phản ứng trước sự leo thang. Trung Quốc đã triển khai mô hình này trong các tranh chấp với các bên có tuyên bố chủ quyền đối địch về bãi cạn Scarborough, Bãi Second Thomas (Bãi Cỏ Mây), cũm bãi cạn Nam Luconia và các hoạt động khoan dầu của CNOOC – 981 phía Nam quần đảo Hoàng Sa. Kể từ năm 2012, CCG đã duy trì một sự hiện diện liên tục trong các khu vực bao gồm xung quanh quần đảo Senkaku tại biển Hoa Đông và bãi cạn Scarborough tại biển Biển Đông. Tương tự, Trung Quốc đã sử dụng các tàu thực thi pháp luật trên biển để giới hạn và gây áp lực lên quyền tiếp cận của Philippines đối với Bãi Second Thomas, nơi Philippines duy trì sự hiện diện thông qua một tàu hải quân bị mắc cạn, tàu Sierra Madre. Tuy Trung Quốc không phải là bên có tuyên bố chủ quyền duy nhất sử dụng các phương tiện phi quân sự để thực hiện các hành động gây lo ngại hoặc nguy hiểm chống lại các bên có tuyên bố chủ quyền đối địch – ví dụ, vào năm 2013, các thành viên trong Lực lượng bảo vệ bờ biển của Philippines đã khiến một ngư dân Đài Loan thiệt mạng tại vùng biển mà cả Philippines và Đài Loan đều tuyên bố chủ quyền – nhưng cho tới nay Trung Quốc là bên tích cực nhất.

Ngoài ra, các nỗ lực ngày càng lớn của các bên có tuyên bố chủ quyền để khẳng định tuyên bố của họ đã dẫn tới một sự gia tăng các vụ việc trên không và trên biển trong những năm gần đây, bao gồm một sự gia tăng chưa từng thấy hoạt động không an toàn của các cơ quan hàng hải Trung Quốc tại biển Hoa Đông và Biển Đông. Máy bay và tàu quân sự của Mỹ thường xuyên là mục tiêu của cách hành xử không an toàn và không chuyên nghiệp này, đe dọa các mục tiêu của Mỹ là bảo vệ quyền tự do trên biển và thúc đẩy việc tuân thủ luật pháp và các tiêu chuẩn quốc tế. Cách lý giải mở rộng của Trung Quốc về quyền tài phán vượt ra ngoài các vùng lãnh hải và không phận tạo ra bất đồng với các lực lượng Mỹ và các đồng minh hiệp ước của Mỹ hoạt động tại các vùng biển và không phận quốc tế trong khu vực và làm dấy lên nguy cơ về khủng hoảng do thiếu thận trọng.

Đã có một số các vụ việc gây lo ngại diễn ra trong những năm gần đây. Ví dụ, vào tháng 8/2014, máy bay chiến đấu J-11 của Trung Quốc đã bay ngay phía dưới máy bay Poseidon P-8A của Mỹ đang hoạt động tại biển Biển Đông, các đảo Hải Nam khoảng 117 hải lý về phía Đông. Máy bay J-11 cũng thực hiện một màn nhào lộn trước máy bay P-8A và bay vượt qua mũi máy bay này để phô trương dàn vũ khí, làm gia tăng hơn nữa khả năng va chạm. Tuy nhiên, kể từ tháng 8/2014, ngoại giao quân sự Mỹ – Trung đã thu được các kết quả tích cực, bao gồm cả việc giảm các hành động ngăn chặn không an toàn. Chúng ta cũng đã chứng kiến PLAN thực thi các tiêu chuẩn quốc tế đã được nhất trí đối với các cuộc chạm trán trên biển, ví dụ như Bộ quy tắc về các vụ đụng độ bất ngờ trên biển (CUES), được ký kết vào tháng 4/2014.

Mỹ đang đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy giải quyết hòa bình tranh chấp ở Biển Đông

Mỹ tích cực phối hợp với các nước đồng minh thực hiện chiến lược an ninh biển toàn diện tập trung vào 4 tuyến nỗ lực: tăng cường các khả năng quân sự của Mỹ trong lĩnh vực hàng hải; xây dựng khả năng trên biển của các đồng mih và đối tác của chúng ta; tạo lực đòn bẩy cho ngoại giao quân sự để giảm thiểu rủi ro và xây dựng tính công khai minh bạch; và tăng cường sự phát triển của một cấu trúc an ninh khu vực mở hiệu quả.

Về việc tăng cường các khả năng quân sự của Mỹ trong lĩnh vực hàng hải. Trước hết, Mỹ đang tăng cường khả năng quân sự để đảm bảo Washington có thể ngăn chặn thành công xung đột và sự hăm dọa và phản ứng dứt khoát khi cần thiết. Nỗ lực này cũng liên quan đến việc tăng cường tư thế lực lượng và sự hiện diện lâu dài của Mỹ trong khu vực, điều sẽ cho phép Mỹ duy trì một nhịp độ huấn luyện, di chuyển và tác chiến cao hơn. Mỹ sẽ tiếp tục các hoạt động bay qua, cho tàu thuyền qua lại và hoạt động phù hợp với luật pháp quốc tế, như các lực lượng Mỹ vẫn làm trên toàn thế giới.

Thứ hai, Mỹ đang cộng tác với các đồng minh và đối tác từ Đông Bắc Á cho đến Ấn Độ Dương để xây dựng khả năng trên biển của họ. Mỹ đang xây dựng khả năng phối hợp tác chiến lớn hơn, cập nhật các bài diễn tập phối hợp của Mỹ, phát triển thêm nhiều hoạt động tích hợp và hợp tác phát triển nhận thức về lĩnh vực hàng hải và các khả năng an ninh trên biển của các đối tác, điều sẽ đảm bảo một khả năng tập thể mạnh mẽ từ sử dụng các năng lực trên biển của Mỹ một cách hiệu quả nhất.

Thứ ba, Mỹ đang tạo lực đòn bẩy cho ngoại giao quân sự để xây dựng tính công khai minh bạch lớn hơn, giảm nguy cơ tính toán sai lầm hay xung đột, và thúc đẩy các quy tắc qua lại chung trên biển. Điều này bao gồm các nỗ lực song phương của Mỹ với Trung Quốc cũng như các sáng kiến đa phương nhằm phát triển các cơ chế giải quyết khủng hoảng mạnh mẽ hơn trong khu vực. Ngoài sự can dự của Mỹ với các đối tác khu vực, Washington cũng tiếp tục khuyến khích các nước phát triển các biện pháp xây dựng lòng tin với nhau và theo đuổi các nỗ lực ngoại giao nhằm giả quyết các tuyên bố chủ quyền tranh chấp.

Cuối cùng, Mỹ đang tăng cường các thể chế an ninh khu vực và khuyến khích phát triển một cấu trúc an ninh khu vực mở và hiệu quả. Như vậy, Bộ Quốc phòng Mỹ đang tăng cường sự can dự vào các thể chế tại ASEAN như Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+), Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), và Diễn đàn biển ASEAN mở rộng (EAMF), cũng như thông qua các diễn đàn rộng hơn như Hội nghị Hải quân Tây Thái Bình Dương (WPNS) và Hội nghị Hải quân Ấn Độ Dương (IONS), trong đó cung cấp những nền tảng để thảo luận thẳng thắn và minh bạch về các mối quan ngại trên biển.

Về việc tăng cường khả năng quân sự của Mỹ ở khu vực biển châu Á. Trong hàng thập kỷ, Mỹ đã đứng bên các đồng minh và đối tác của mình để giúp duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Bộ Quốc phòng Mỹ cũng đang tăng cường các khả năng triển khai sức mạnh của Mỹ từ trên biển, trên không và dưới mặt nước. Là một phần trong nỗ lực này, Mỹ đang triển khai một số tàu nổi tối tân tới khu vực này, bao gồm vào năm 2015 thay thế tàu sân bay USS George Washington bằng tàu USS Ronald Reagan mới hơn; phái tàu tấn công đổ bộ phục vụ tác chiến trên không mới nhất của Mỹ, tàu USS America, tới khu vực này vào năm 2020; triển khai thêm 2 tàu khu trục gắn hệ thống Aegis tới Nhật Bản và phiên chế cả 3 tàu khu trục tàng hình lớp mới nhất của Mỹ cho hạm đội Thái Bình Dương.

Mỹ cũng đang bổ sung cho các khả năng trên mặt biển này bằng một số phương tiện trên không mạnh nhất của mình, bao gồm máy bay chiến đấu F-22, các máy bay ném bom chiến lược B-2 và B-52 liên tục được triển khai, bổ sung máy bay cánh quạt nghiêng cho Lực lượng lính thủy đánh bộ và Các lực lượng đặc nhiệm, đưa máy bay F-35 tới đóng quân ở tiền tiêu tại Iwakuni, Nhật Bản. Bộ Quốc phòng cũng sẽ mua 395 máy bay F-35 trong vòng vài năm tới, phần nhiều trong số đó sẽ được triển khai tới khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Đối với môi trường dưới mặt biển, Mỹ đang bố trí thêm một tàu ngầm tấn công ở Guam.

Bên cạnh việc tăng cường các khả năng triển khai sức mạnh, Mỹ cũng đang đầu tư vào các khả năng linh hoạt sẽ cho phép quân đội phản ứng nhanh hơn và hiệu quả hơn trước một loạt rộng hơn các thách thức tiềm tàng trên biển. Việc triển khai luân phiên các tàu chiến ven biển (LCS) ở Singapore đã đem lại cho Hải quân Mỹ một phương tiện linh hoạt, mau lẹ có thể hoạt động hiệu quả trong các vùng ven bờ đầy thách thức của khu vực này.

Ngoài ra, là một phần trong các hoạt động hiện diện thường xuyên của Bộ Quốc phòng, Hải quân Mỹ, Không quân Mỹ và Lực lượng bảo vệ bờ biển Mỹ tiến hành các chiến dịch tự do hàng hải. Các hoạt động tác chiến này đóng vai trò bảo vệ các quyền, quyền tự do và sử dụng hợp pháp vùng biển và vùng trời được bảo đảm cho tất cả các nước theo luật pháp quốc tế bằng cách phản đối tất cả các tuyên bố chủ quyền trên biển quá mức mà một số nước ven biển ở khu vực này đưa ra. Tầm quan trọng của các hoạt động này không hề bị cường điệu. Nhiều quốc gia ở khắp khu vực châu Á – Thái Bình Dương đưa ra các tuyên bố chủ quyền trên biển quá mức mà, nếu không bị thách thức, có thể hạn chế quyền tự do trên biển. Chẳng hạn, các tuyên bố chủ quyền quá mức này bao gồm các đường cơ sở thẳng được vạch ra không đúng cách, các hạn chế không thích hợp đối với quyền của tàu chiến đi qua vô hại lãnh hải của nước khác, và quyền tự do tiến hành các hoạt động quân sự bên trong Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của các nước khác. Gộp lại với nhau, các EEZ ở khu vực USPACOM chiếm tới 38% đại dương trên thế giới. Nếu các tuyên bố chủ quyền trên biển quá mức này không bị phản đối, chúng có thể hạn chế khả năng Mỹ và các nước khác thực hiện các hoạt động hay diễn tập quân sự theo thường lệ trên hơn 1/3 đại dương của thế giới. Trong 2 năm qua, Bộ Quốc phòng đã tiến hành một nỗ lực nhằm khôi phục chương trình tự do hàng hải của chúng ta, phối hợp với Bộ Nogại giao để đảm bảo rằng chúng ta thường xuyên và kiên định phản đối các tuyên bố chủ quyền quá mức trên biển. Mỹ cũng đang theo đuổi một loạt cuộc diễn tập huấn luyện và can dự mạnh mẽ với các đồng minh và đối tác nhằm tăng cường hợp tác an ninh hàng hải song phương và đa phương thiết thực mới, xây dựng khả năng tương tác cần thiết để thực hiện các hoạt động đa phương, và thúc đẩy lòng tin và sự công khai minh bạch trong khu vực. Mỹ sẽ gia tăng quy mô, tần suất và độ tinh xảo của chương trình diễn tập khu vực, với một sự chú trọng đặc biệt vào việc phát triển các cuộc diễn tập mới với các đối tác Đông Nam Á và mở rộng chương trình diễn tập đa phương.

RELATED ARTICLES

Tin mới