Đài truyền hình Trung ương Trung Quốc (27/7) cho biết, Trung Quốc đã bàn giao tàu khảo sát “Đại Dương hiệu”, đánh dấu kỷ nguyên mới về năng lực thăm dò và nghiên cứu tài nguyên biển của Trung Quốc.
Tàu khảo sát mới của Trung Quốc
Theo CCTV, tàu trên dài 98,5 m, rộng 17 m và độ choán nước xấp xỉ 4.600 tấn, được trang bị tàu lặn, sonar và hệ thống cảm biến từ xa, tốc độ tối đa 16 hải lý/giờ và tầm hoạt động khoảng 14.000 hải lý, có khả năng tiến hành thăm dò tài nguyên tầng sâu ở bất kỳ đại dương nào trên thế giới. CCTV cho rằng con tàu Đại Dương Hiệu cũng đại diện cho “đỉnh cao” của công nghệ khảo sát đại dương của Trung Quốc. Tàu Đại Dương Hiệu do Bộ Tài nguyên thiên nhiên sở hữu và quản lý, được trang bị công nghệ khảo sát đại dương tiên tiến nhất của Trung Quốc. Việc chuyển giao con tàu này đánh dấu một kỷ nguyên mới về năng lực của Trung Quốc trong nghiên cứu, khảo sát, thăm dò tài nguyên biển và giúp duy trì quyền lợi của nước này trong các vùng biển quốc tế.
Giới chuyên gia, học giả cho rằng tàu trên sẽ là công cụ góp phần quan trọng để Trung Quốc củng cố yêu sách “chủ quyền” phi pháp trên biển. Chuyên gia Collin Koh, Viện Nghiên cứu Quốc tế S Rajaratnam tại Đại học Công nghệ Nanyang ở Singapore nhận định, “tàu này không chỉ làm nhiệm vụ khảo sát mà là tàu nghiên cứu hải dương học. Tàu thường vượt quá nhiệm vụ khảo sát và cũng có các phòng thí nghiệm trên tàu để nghiên cứu khoa học biển. Nếu được triển khai đến Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông), con tàu giúp thể hiện sự hiện diện hàng hải của Trung Quốc. Nhưng ngoài ra việc thu thập thông tin và dữ liệu hải dương quan trọng của tàu sẽ giúp Trung Quốc tăng cường hiểu biết về vùng biển và điều này sẽ giúp tối ưu hóa phạm vi hoạt động dân sự và quân sự – tựu chung là giúp Trung Quốc khẳng định về các tuyên bố chủ quyền của mình”. Ngoài ra, Trung Quốc cũng có thể sẽ sử dụng các thông tin thu thập được để hiểu hơn về điều kiện đáy biển, sinh thái… Những thông tin này có thể tạo ra dữ liệu hữu ích cho ngư nghiệp, khai thác đáy biển, khai thác tài nguyên hydrocarbon và nhiều hoạt động khác. Hiện không có nước nào trong khu vực có năng lực nghiên cứu khoa học biển cao như vậy nên tàu Đại Dương Hiệu đem lại cho Trung Quốc một lợi thế rất đáng kể.
Trong khi đó, chuyên gia Tống Trung Binh của Trung Quốc lại cho rằng việc nâng cao năng lực nghiên cứu đại dương sẽ giúp Trung Quốc trở thành siêu cường về biển. Muốn đạt được điều đó, Bắc Kinh phải không ngừng thu thập các thông tin các nhau về đại dương và nhiệm vụ Da Yang Hao có thể được mở rộng sang vùng biển khác.
Điểm mặt những tàu khảo sát của Trung Quốc
Tính đến thời điểm hiện tại, Trung Quốc có 54 tàu khảo sát (26 tàu khảo sát xa bờ, 26 tàu khảo sát gần bờ) như: Tàu Tuyết Long, Trung tâm nghiên cứu địa cực Trung Quốc; tàu Đại Dương số 1, thuộc Hiệp hội phát triển nghiên cứu tài nguyên khoáng sản đại dương Trung Quốc; tàu Hướng Dương Đỏ 06, thuộc Chi cục Bắc Hải Cục Hải dương Quốc gia; tàu Phát Hiện, thuộc Đại đội Khảo sát địa chất hải dương số 1, Cục dầu mỏ Hải Dương Thượng Hải; tàu Khảo Cổ 01, thuộcCục Văn vật Quốc gia Trung Quốc; tàu Chiết Hải Khoa 1, Đại học Hải Dương Chiết Giang…
Tàu Khảo Cổ 01: Tàu có chiều dài 56 m, chiều rộng 10,8m, chiều cao 4,8 m, độ mớn nước 2,6 m, trọng tải 950 tấn, tốc độ 12 hải lý/h, chịu được sóng gió cấp 8, hành trình liên tục 30 ngày đêm, biên chế 36 người, tàu gồm 5 tầng với 11 phòng, bao gồm phòng công tác chuyên môn, phòng thiết bị khảo cổ, phòng nghỉ… Tàu này được thiết kế với mục đích chuyên thực hiện nhiệm vụ khảo cổ, bảo tồn di chỉ di vật dưới nước tại các khu vực biển duyên hải, bao gồm cả khu vực biển thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
Tàu thực nghiệm tổng hợp Lý Tứ Quang: Tàu thực nghiệm tổng hợp do Trung Quốc tự nghiên cứu thiết kế, chế tạo. Nó được khởi đóng năm 2012 và hạ thủy vào tháng 11/2013. Tàu có chiều dài 129,3m, rộng 17m, lượng giãn nước tải đầy 6.086 tấn, được thiết kế với trình độ tự động hóa cao, tính năng kỹ thuật rất ưu việt. Nó được trang bị nhiều loại thiết bị tiên tiến để phục vụ cho hoạt động nghiên cứu biển.
Tàu điều tra hải dương 871: Tàu 871 Lý Tứ Quang là tàu khảo sát tổng hợp biển xa đầu tiên do Phòng 1 – Viện 708 – Tập đoàn công nghiệp đóng tàu Trung Quốc tự thiết kế, Nhà máy đóng tàu Vu Hồ chế tạo và đưa vào hoạt động tháng 8/1998. Tàu được trang bị hệ thống quan trắc, đo đạc biển tầng nước sâu 3 chiều và hệ thống thông tin liên lạc tiên tiến, chuyên thực hiện nhiệm vụ điều tra hải dương, khảo sát biển và kỹ thuật hàng hải.
Tàu khảo sát vật lý địa cầu Hải Dương Thạch Du (tàu Hải Dương Thạch Du 720 và tàu Hải Dương Thạch Du 721): Tàu có chiều dài 107,4m, chiều rộng 24m, chiều cao 9,6m, độ sâu tác nghiệp đạt 3.000m, tàu được trang bị 12 dây cáp có chiều dài mỗi dây 8000m, có thể tác nghiệp thu thập số liệu địa chất trong điều kiện biển sóng gió cấp 5. Tàu chuyên tiến hành hoạt động khảo sát địa chất, được trang bị nhiều thiết bị công nghệ tối tân nhất nhằm đẩy nhanh tốc độ khảo sát nước sâu, nâng cao hiệu quả thu thập dữ liệu về tài nguyên, tìm nguồn dầu khí hải dương mới tại khu vực Biển Đông cho Trung Quốc.
Tàu Đông phương Hồng: Tàu có trọng lượng rẽ nước hơn 3.000 tấn, là một trong những tàu nghiên cứu khảo sát hiện đại nhất của Trung Quốc, được đưa vào sử dụng từ những năm 1996. Tàu trên có nhiệm vụ phân tích, nghiên cứu nhằm làm rõ quá trình phát triển của Biển Đông cũng như nguồn tài nguyên tự nhiên trong vùng biển.
Âm mưu không đổi
Trung Quốc luôn cho rằng nơi nào có hiện vật nguồn gốc Trung Hoa, nơi đó là vùng lãnh thổ do người Trung Hoa chiếm cứ và khai thác, bởi họ có ý đồ sẽ hậu thuẫn cho mục tiêu dịch chuyển không gian hàng hải đến toàn bộ dân chúng. Điều đó cho thấy, khảo cổ học dưới nước mang ý nghĩa chính trị trong vấn đề chủ quyền biển đảo quốc gia. Chính vì vậy, mục đích của Trung Quốc tập trung vào khảo cổ học không chỉ là bảo tồn văn hóa, mà quan trọng hơn là nâng cao địa vị cường quốc hải dương của Trung Quốc với thế giới và từng bước độc chiếm Biển Đông.
Khảo cổ cũng là chiêu trò mới của Trung Quốc trong việc tìm kiếm các chứng cứ lịch sử, yêu cầu UNESCO công nhận “Con đường tơ lụa trên biển” của họ là di sản văn hóa thế giới. Nó thực chất là thủ đoạn ngụy tạo những chứng cứ lịch sử về sự hiện diện, khai phá của cư dân Trung Quốc trên các quần đảo. Việc đưa hàng loạt các tàu khảo sát, khảo cổ và thực nghiệm xuống biển Đông cho thấy, Trung Quốc đang không ngừng đầu tư chế tạo các tàu phục vụ cho hoạt động nghiên cứu lịch sử và khoa học trái phép, nhằm hiện thực hóa âm mưu hết sức nguy hiểm là tranh đoạt chủ quyền lãnh thổ và vơ vét tài nguyên ở 80% diện tích Biển Đông.
Ngoài ra, các tàu khảo sát vật lý địa cầu dưới đáy biển này đóng vai trò như những tên “lính tiên phong”, sẽ tiến hành thăm dò, lấy mẫu các tầng đất đá, nghiên cứu cấu tạo các tầng địa chất dưới đáy biển để tìm ra những dấu hiệu cho thấy sự hiện hiện của các mỏ dầu, tạo điều kiện thuận lợi cho các giàn khoan tiến hành thăm dò chất lượng và trữ lượng dầu trong các mỏ ngầm dưới đáy biển. Điều đó cho thấy, chính quyền Bắc Kinh đã lộ rõ chân tướng của một kẻ luôn muốn độc chiếm Biển Đông, nhằm khai thác triệt để nguồn tài nguyên dầu khí phong phú ở vùng biển này, phục vụ cho cơn khát năng lượng của một nền kinh tế hiện đang phát triển quá nóng của Trung Quốc.
Không những vậy, báo chí và giới chức Trung Quốc tích cực tuyên truyền, bao biện về mục đích, ý nghĩa và tầm quan trọng của hợp tác quốc tế trong hợp tác nghiên cứu khảo sát khoa học biển, khi cho rằng hoạt động hợp tác nghiên cứu khảo sát khoa học biển của Trung Quốc với các nước là một nội dung quan trọng được Đảng Cộng sản Trung Quốc đề ra trong Kế hoạch 5 năm lần thứ 13 (2016-2020), nhằm giúp Trung Quốc từng bước thực hiện mục tiêu xây dựng “Cường quốc biển”, phục vụ triển khai “Con đường tơ lụa trên biển” và cùng với các nước khác xây dựng một “Cộng đồng chung vận mệnh”. Nhiều bài báo ca ngợi rằng hoạt động hợp tác khảo sát khoa học biển là nỗ lực của Trung Quốc trong việc chủ động chia sẻ kinh nghiệm với các nước để góp phần bảo vệ môi trường, nâng cao năng lực ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng ngừa thiên tai, phát hiện và khai thác các nguồn tài nguyên biển nhằm mang lại lợi ích cho các nước. Trên thực tế, hoạt động hợp tác quốc tế về khảo sát nghiên cứu khoa học biển của Trung Quốc bị dư luận tại nhiều nước phản đối. Tại Philippines, bất chấp thái độ thực dụng của chính phủ khi thúc đẩy hợp tác khai thác chung với Trung Quốc, một bộ phận chính giới và các nhà khoa học Philippines đã phản ứng mạnh mẽ, cho rằng Trung Quốc đang sử dụng danh nghĩa hợp tác nghiên cứu khoa học để xoa dịu quan ngại của các nước về các hoạt động đơn phương của Trung Quốc ở Biển Đông, thông qua hoạt động này để giành vai trò dẫn dắt trong “hợp tác cùng khai thác” theo chủ trương của Trung Quốc, đồng thời tìm cách củng cố các bằng chứng đòi hỏi “chủ quyền” tại các vùng biển tranh chấp. Chính điều này đã khiến cho Hội đồng Bản đồ và Khoáng sản quốc gia Philippines hôm 26/2/2018 phải đề nghị Bộ Ngoại giao Philippines kiến nghị Tổ chức Thủy văn quốc tế hủy các tên gọi do Trung Quốc đặt cho 05 cấu trúc trong vùng biển Benham Rise mà Trung Quốc có được thông qua các hoạt động nghiên cứu, khảo sát.
Giới chuyên gia quốc tế cũng cho rằng việc Trung Quốc thúc đẩy hoạt động hợp tác nghiên cứu khảo sát, thăm dò tài nguyên với các nước không chỉ nhằm cạnh tranh, mở rộng ảnh hưởng của Trung Quốc ở nhiều khu vực biển quốc tế trong đó có Tây Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, hoạt động này còn nhằm tạo tiền đề thúc đẩy mở rộng hợp tác trên biển giữa Trung Quốc với các nước, qua đó hỗ trợ đắc lực cho việc triển khai sáng kiến “Con đường Tơ lụa trên biển thế kỷ 21” và góp phần giúp Trung Quốc hiện thực hóa mục tiêu trở thành “Cường quốc biển” vào giữa thế kỷ 21. Rõ ràng là, thông qua việc triển khai các phương tiện tham gia, Trung Quốc không chỉ tìm kiếm được sự gắn kết về chính trị, kinh tế với các nước, mà còn khảo sát được địa hình, địa chất đáy biển phục vụ cho các hoạt động quân sự của nước này, nhất là để xây dựng phương án tác chiến của tàu ngầm và tàu sân bay, thu thập tin tức về bố trí lực lượng của các nước. Ngoài ra, hoạt động hợp tác khảo sát nghiên cứu khoa học biển với các nước còn giúp Trung Quốc xây dựng hình ảnh là “cường quốc biển có trách nhiệm trong bảo vệ môi trường, ứng phó thiên tai và cùng các nước xây dựng “Cộng đồng chung vận mệnh”.
Tại Biển Đông, việc Trung Quốc tăng cường hoạt động hợp tác nghiên cứu khoa học, trong đó nước được chú ý nhất chính là Philippines, nhằm tạo hình ảnh về “thiện chí” của Trung Quốc trong việc thúc đẩy hợp tác và giải quyết hòa bình các tranh chấp, tạo ra sự ngộ nhận trong dư luận về một Biển Đông ổn định và hợp tác theo những gì Trung Quốc tuyên truyền, nhằm che đậy việc nước này đang đẩy mạnh quân sự hóa ở Biển Đông như đưa tên lửa, máy bay chiến đấu ra Trường Sa, lắp đặt hệ thống Rada gây nhiễu sóng…, đồng thời, Trung Quốc đã tạo sự nghi kỵ trong nội bộ các nước ASEAN và hiểu lầm của các nước bên ngoài về các hoạt động hợp tác cùng khai thác song phương với Trung Quốc.