Saturday, November 16, 2024
Trang chủSự thật Trung HoaTQ và những cuộc xâm lấn trái phép trên Biển Đông

TQ và những cuộc xâm lấn trái phép trên Biển Đông

Từ một nước không có đảo, đá và các bãi cạn ở Biển Đông, Trung Quốc đã bất chấp luật pháp quốc tế, sử dụng vũ lực đánh chiếm trái phép các biển, đảo của Việt Nam và một số nước trong khu vực.

Khi thành lập 1949, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa kiểm soát rất ít trong số 4 quần đảo, bãi ngầm tại Biển Đông, cũng như không kiểm soát được khu vực đảo Đài Loan. Trung Quốc lúc này đã phải đối đầu với các thách thức, chẳng hạn từ chính quyền Quốc Dân Đảng với sự hỗ trợ của Hoa Kỳ, cũng như trên các đảo ngoài khơi khác tại khu vực Biển Đông và biển Hoa Đông.

Đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa

Quần đảo Hoàng Sa gồm hai nhóm đảo chính, nhóm Nguyệt Thiềm (Crescen) nằm ở phía Tây Nam quần đảo, nhóm An Vĩnh (Amphitrite) nằm ở phía Đông Bắc. Trước đó, quân đội Pháp đã chiếm đảo Hoàng Sa (Pattle) thuộc nhóm Nguyệt Thiềm (Crescen). Năm 1951, Trung Quốc đã chính thức đưa ra yêu sách về chủ quyền của họ đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nhưng bị nhiều quốc gia khác phản đối. Ngày 1/6/1956, Ngoại trưởng chính quyền Việt Nam Cộng hòa Vũ Văn Mẫu tuyên bố tái khẳng định chủ quyền của Việt Nam với Hoàng Sa và Trường Sa. Vài ngày sau, nhà nước Cộng hòa Pháp cũng lên tiếng xác nhận. Ngày 22/8/1956, hải lục quân Việt Nam Cộng hòa đổ bộ lên đảo chính của Hoàng Sa, dựng bia, kéo cờ. Trong cùng ngày, lực lượng hải quân tỏa ra đổ bộ lên các hòn đảo chính thuộc Trường Sa, dựng các cột đá chủ quyền. Tháng 10/1956, hải quân Đài Loan chiếm đảo Ba Bình (Itu Aba). Tranh thủ cơ hội, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa lập tức nhảy vào chiếm đảo Phú Lâm. Trước những hành động phi pháp của Trung Quốc, Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã liên tục khẳng định chủ quyền, phản đối các hành động chiếm đóng trái phép của nước ngoài trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tuy nhiên, Trung Quốc ngày càng táo bạo và bất chấp lẽ phải, luật pháp quốc tế để sử dụng vũ lực nhằm xâm chiếm và kiểm soát hoàn toàn quần đảo này.

Vào đầu những năm 1970, các lợi ích từ tài nguyên biển trên Biển Đông trở nên rất quan trọng, đặc biệt tại các khu vực mà các bên tranh chấp. Năm 1970, Philippines hoàn thành việc khảo sát địa chấn tại các vùng nước xung quanh Trường Sa và năm 1971 bắt đầu tiến hành khoan thăm dò. Trong khi đó, Việt Nam Cộng hòa cũng bắt đầu việc khai thác nguồn dầu khí ngoài khơi, và tháng 7/1973 Sài Gòn đã ký kết 8 hợp đồng khoan thăm dò tại những nơi được cho là có nhiều dầu mỏ trên Biển Đông. Tháng 1 và tháng 3/1973, Việt Nam Cộng hòa cũng đã cho tiến hành khảo sát địa chấn tại khu vực xung quanh nhóm đảo Nguyệt Thiềm. Tháng 12/1973, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng công bố cho thấy triển vọng của các giếng dầu ở ngoài khơi Vịnh Bắc Bộ, phía Bắc của quần đảo Hoàng Sa.

Với những giá trị kinh tế của các nhóm đảo ngoài khơi ngày càng gia tăng, các quốc gia khác cũng bắt đầu giành lấy những cấu trúc tại Hoàng Sa, Trường Sa, ở những nơi mà Trung Quốc hoàn toàn không có sự hiện diện nào. Để củng cố cho các yêu sách của mình, Philippines đã chiếm 5 đảo và đá tại Trường Sa trong khoảng thời gian từ năm 1970 đến năm 1971. Đây là lần đầu tiên Philippines có sự hiện diện tại vùng lãnh thổ tranh chấp này.

Tháng 9/1973, Việt Nam Cộng hòa tuyên bố sáp nhập quần đảo Trường Sa vào địa bàn tỉnh Phước Tuy. Các hành động của các quốc gia này chỉ trong chưa đầy 3 năm đã đẩy Trung Quốc vào thế bất lợi trong tranh chấp này. Để đáp lại những hành động đó, Trung Quốc quyết định mở rộng sự hiện diện của mình trên những hòn đảo ngoài khơi Biển Đông, nơi có ít sự trợ giúp của các lực lượng hải quân của các quốc gia khác. Đặc biệt, sau cuộc gặp lịch sử giữa Mao Trạch Đông với Nixon vào đầu năm 1972, và sự kiện Mỹ rút ra khỏi Việt Nam sau Hiệp định Paris đầu năm 1973, Bắc Kinh đã thấy trước một khả năng mới: Họ có thể loại trừ khả năng can thiệp của Hải quân Mỹ nếu cưỡng chiếm các hòn đảo thuộc do Việt Nam Cộng hòa quản lý.

Trung Quốc đã sử dụng các ngư dân để gia tăng sự hiện diện của họ trên vùng biển nhóm Nguyệt Thiềm (Crescen) từ năm 1973. Ngày 9/1/1974, các ngư dân Trung Quốc từ đảo Hữu Nhật (Robert) áp sát tới gần đảo Hoàng Sa (Pattle) – nơi mà Việt Nam Cộng hòa đang đóng quân trên đó. Ngày 11/1, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc công khai thách thức Tuyên bố tháng 9/1973 của Việt Nam Cộng hòa. Giữa tháng 1/1974, các tình huống đối đầu trở nên căng thẳng hơn. Tiếp theo các tuyên bố của Bắc Kinh, Sài Gòn gửi thêm một số tàu chiến tới khu vực nhóm đảo Nguyệt Thiềm (Crescen), trục xuất các ngư dân Trung Quốc ra khỏi khu vực này. Từ đó đã dẫn tới sự kiện ngày 19-20/1/1974, mà sau đó Trung Quốc đã giành được quyền kiểm soát trên toàn bộ quần đảo Hoàng Sa bằng sức mạnh quân sự của mình.

Trước khi tiếng súng bắt đầu nổ ra tại Hoàng Sa vào lúc 10h25′, ngày 19/1/1975, ngày 16/1/1974, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã tuyên cáo rộng rãi với thế giới bác bỏ những luận cứ vô lý của Trung Quốc và đưa ra những bằng chứng lịch sử, pháp lý được thế giới công nhận của Việt Nam với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sau khi phát hiện sự có mặt của quân đội Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại vùng Hoàng Sa với cờ dựng trên các đảo Quang Anh (Money), Hữu Nhật (Robert), lực lượng quân đội Việt Nam Cộng hòa được tăng cường với khu trục hạm Trần Khánh Dư, tuần dương hạm Trần Bình Trọng, hộ tống hạm Nhật Tảo. Lực lượng tăng cường của Việt Nam Cộng hòa có các toán biệt hải được lệnh đổ bộ đến các đảo hạ cờ của quân đội Trung Quốc. Vài vụ xô xát đã xảy ra, súng đã nổ trên đảo Quang Hòa (Duncan) và một đảo khác. Lực lượng hai bên bắt đầu chuẩn bị, các chiến hạm cách nhau chừng 200m. Cuộc hải chiến bắt đầu diễn ra vào lúc 10h25′ ngày 19/1/1974. Một chiến hạm của TQ bị bốc cháy. Các chiến hạm của TQ mang số 281, 182 dồn sức đánh trả khiến chiến hạm Nhật Tảo bị trúng đạn trên đài chỉ huy và hầm máy chính, hạm trưởng Ngụy Văn Thà hy sinh. Sau hơn 1 giờ giao tranh, hai chiến hạm của TQ chìm, 2 chiếc khác bị bắn cháy. Bên lực lượng Việt Nam Cộng hòa ngoài hộ tống hạm Nhật Tảo bị chìm, còn có một số chiến hạm bị thương tổn, trong đó có một số binh sĩ bị bắt và mất tích.

Ngày 20/1/1974, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ra bản Tuyên bố phản đối hành động này của phía Trung Quốc. Ngày 26/1/1974, Chính phủ Cách mạng lâm thời thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tuyên bố lập trường 3 điểm về việc giải quyết các vấn đề tranh chấp lãnh thổ. Ngày 14/2/1974, Chính phủ Cách mạng lâm thời thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tuyên bố khẳng định quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là một bộ phận của lãnh thổ Việt Nam. Ngày 30/3/1974, đại biểu chính quyền Việt Nam Cộng hòa khẳng định chủ quyền Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa tại Hội đồng Kinh tài Viễn Đông họp tại Colombia. Ngày 14/2/1975, Bộ Ngoại giao chính quyền Việt Nam Cộng hòa công bố Sách Trắng về Hoàng Sa và Trường Sa.

Mặc cho những sự phản đối này, Trung Quốc vẫn chiếm giữ trái phép toàn bộ Hoàng Sa và tiếp tục phát triển cơ sở hạ tầng trên quần đảo cho đến nay. Nước Việt Nam thống nhất sau năm 1975 luôn tuyên bố khẳng định rõ ràng chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa.

Xâm chiếm một số đảo, đá ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam

Tại quần đảo Trường Sa, từ năm 1986, tình hình khu vực biển quần đảo Trường Sa có những diễn biến phức tạp, Trung Quốc và một số quốc gia Đông Nam Á như Philippines và Malaysia… đã đẩy mạnh các hoạt động xâm chiếm các đảo, thuộc chủ quyền của Việt Nam và củng cố các đảo đã chiếm được. Cuối năm 1986, Philippines đẩy mạnh việc vận chuyển xây dựng công trình trên các đảo của họ đóng giữ là đảo Song Tử Đông, Panata (hay còn gọi là Lamkiam Cay, hoặc còn có tên khác là Cồn San hô Lan Can/cồn An Nhơn). Cùng lúc đó ở phía Nam Trường Sa, Malaysia bí mật đưa lực lượng ra chiếm đóng bãi đá Kỳ Vân và tháng 1 năm 1987, Malaysia chiếm đóng bãi đá Kiêu Ngựa, làm cho tình hình thêm căng thẳng.

Để phục vụ tiến hành cho cuộc chiến mà Lưu cho là “có lợi ích lớn cho Trung Quốc”, cuối tháng 12 năm 1986, Lưu Hoa Thanh – Phó Tham mưu trưởng Hải quân Trung Quốc đã cho máy bay và tàu thuyền (gồm cả tàu chiến và tàu cá vũ trang) tiến hành hoạt động trinh sát, thăm dò từ khu vực đảo Song Tử Tây đến khu vực đảo Thuyền Chài. Tháng 4/1987, Lưu Hoa Thanh giao nhiệm vụ cho Tư lệnh Hạm đội Nam Hải Trần Minh Sơn, yêu cầu các tàu chiến nhận nhiệm vụ tuần tra Trường Sa chuẩn bị kỹ lưỡng cho chiến tranh. Năm 1988, Hải quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc sử dụng vũ lực đánh chiếm trái phép bãi đá Cô Lin, bãi đá Len Đao và bãi đá Gạc Ma của Việt Nam. Do ba bãi đá này không có quân đội đồn trú nên Hải quân Việt Nam phải đưa quân ra bảo vệ và xây công trình trên các đảo. Phía Trung Quốc cho quân đổ bộ ngăn chặn, nổ súng để giật cờ Việt Nam trên bãi đá Gạc Ma, sau đó lại dùng pháo trên chiếm hạn bắn vào tàu vận tải hải quân Việt Nam (không có pháo để tự vệ), khiến cuộc chiến nổ ra vào ngày 14/3/1988 trở thành vụ Trung Quốc thảm sát binh sỹ Việt Nam đang bảo vệ chủ quyền biển đảo ở Trường Sa.

Xâm chiếm Bãi Vành Khăn

Đá Vành Khăn là một rạn san hô vòng thuộc cụm Bình Nguyên của quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam. Bãi cạn này nằm cách đảo Sinh Tồn Đông 57 hải lý (105,6 km) về phía Đông và cách đảo Vĩnh Viễn 51 hải lý (94,5 km) về phía Nam.Trước năm 1995, đá Vành Khăn thuộc quyền kiểm soát của Philippines. Tháng 2/1995, Trung Quốc điều 7 tàu đến đá Vành Khăn, bắt giữ và trục xuất các ngư dân Philippines tại đây. Sau đó nước này cho xây dựng những cấu kiện hình đa giác dựng trên những cột thép,đĩa vệ tinh và cắm cờ Trung Quốc.Khi Philippines lên tiếng phản đối, Trung Quốc đáp lại rằng việc chiếm đóng là “do cấp dưới ra lệnh và thực thi” mà “không thông báo hay xin phép chính phủ Trung Quốc”. Dù vậy, Trung Quốc vẫn tiếp tục củng cố các công trình trên thực thể này.

Tháng 11/1998, Trung Quốc gửi bảy con tàu chở theo rất đông thợ xây đến đá Vành Khăn để xây dựng những toà nhà bê tông và đề nghị Philippines sử dụng chung các tòa nhà này. Philippines đã từ chối lơi đề nghị của và lên án mạnh mẽ Trung Quốc trên các diễn đàn ngoại giao.Đến năm 2015, Trung Quốc bắt đầu xây một đường băng trên đá Vành Khăn, tháng 7/2016 đường băng hoàn tất với chiều dài 2.644 mét. Năm 2018, các tên lửa hành trình chống hạm Trung Quốc đã xuất hiện trên bãi cạn này.

Bao vây chiếm bãi cạn Scarborough

Bãi cạn Scarboroughlà một đảo san hô vòng gồm nhiều đá ngầm và đá nổi, nằm giữa bãi Macclesfield và đảo Luzon của Philippines ở Biển Đông. Bãi này cách vịnh Subic 123 hải lý (198 km) và đảo Luzon 137 hải lý (220 km) về phía Tây.Philippines cho rằng họ đã thực thi chủ quyền của mình với bãi cạn này từ năm 1965 bằng cách xây một ngọn hải đăng bằng sắt tại đây. Philippines cũng cho rằng bãi cạn này hoàn toàn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý được Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển công nhận. Trung Quốc lại cho rằng đây là một phần lãnh thổ của nước này, ít nhất là từ thế kỷ 18, và họ còn đưa ra các bản đồ cổ làm bằng chứng.

Trước tháng 4/2012, cả Trung Quốc lẫn Philippines đều không duy trì sự hiện diện thường trực ở bãi cạn Scarborough. Đến ngày 8/4/2012, Philippines kiểm tra một số tàu cá của Trung Quốc tại khu vực bãi cạn này và cáo buộc các ngư dân Trung Quốc đã xâm nhập và đánh bắt trái phép ở vùng biển mà nước này tuyên bố chủ quyền.Sau khi nhận được thông báo của các tàu, hai tàu hải giám của Trung Quốc đã tới bãi cạn Scarborough, chặn lối vào đầm phá và ngăn cản nhà chức trách Philippines bắt giữ ngư dân Trung Quốc. Với sự yểm trợ của tàu hải giám, các tàu cá Trung Quốc đã thoát khỏi bãi cạn.Tới cuối tháng 5/2012, Trung Quốc triển khai thêm 7 tàu hải giám và các tàu của Ủy ban nghề cá. Nhiều tàu chính phủ và tàu cá của Trung Quốc vẫn hoạt động quanh bãi cạn.Kể từ tháng 6/2012, Trung Quốc đã duy trì kiểm soát tại bãi cạn Scarborough và cho quân đồn trú lâu dài trên bãi này.

Chiếm bãi Cỏ Mây

Bãi Cỏ Mây là một rạn san hô vòng thuộc cụm Bình Nguyên của quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Rạn vòng này nằm về phía Đông Nam của đá Vành Khăn và cách bãi Sa Bin 35 hải lý (64,8 km) về phía Tây.Vào năm 1999, Philippines đã cho tàu BRP Sierra Madre, là tàu vận tải đổ bộ thời Thế chiến II, ủi thẳng vào bãi Cỏ Mây nhằm thiết lập sự hiện diện tại khu vực này. Kể từ đó, dù đã rỉ sét nhưng chiếc tàu chiến vẫn là căn cứ đồn trú của một tiểu đội thủy quân lục chiến Philippines.

Đầu tháng 5/2013, một tàu chiến cùng hai tàu hải giám của Trung Quốc đã tuần tra và phong tỏa việc tiếp tế hậu cần cho các binh sĩ thủy quân lục chiến của Philippines ở tàu tàu BRP Sierra Madre.Trước sự phản đối của Bộ Ngoại giao Philippines, Bộ Ngoại giao Trung Quốc ngang ngược tuyên bố về cái gọi là “chủ quyền không thể tranh cãi” ở khu vực bãi Cỏ Mây và khẳng định là các tàu công vụ Trung Quốc “có quyền” tuần tra trong khu vực bãi Cỏ Mây.

Đổ bộ chiếm bãi cạn James

Bãi cạn James là một rạn san hô trong Biển Đông với chiều sâu khoảng 22 mét so với mặt biển. Bãi cạn này nằm trên thềm lục địa của đảo Borneo, cách Bintulu của Malaysia 80 km về phía Tây Bắc, cách cực nam của cụm bãi cạn Luconia 96 km và cách đất liền Trung Quốc 1.800 km về phía Nam.Malaysia khẳng định bãi cạn James nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của mình, trong khi trung Quốc tuyên bố rằng đây là điểm cực Nam của lãnh thổ, dựa trên bản đồ có đường “lưỡi bò” ôm trọn toàn bộ Biển Đông.

Căng thẳng giữa Malaysia và Trung Quốc quanh bãi cạn James bùng phát vào tháng 5/1983, khi một đội tàu hải quân Trung Quốc ghé thăm bãn ngầm này nhằm khẳng định chủ quyền quốc gia của Trung Quốc. Tháng 9/1983, Malaysia tuyên bố vùng biển quanh bãi cạn James thuộc “vùng kinh tế biển” của mình.Năm 1994, hải quân Trung Quốc lại tiến vào bãi cạn James và thả bia chủa quyền. Vào ngày 20/4/2010, tàu hải giám số 83 của Trung Quốc tiếp tục thực hiện hành vi tương tự, bất chấp sự phản đối của Malaysia.Đầu năm 2013, một lực lượng đặc nhiệm của hải quân Trung Quốc đã đỗ bộ lên bãi cạn James từ tàu Jinggangshan, được hỗ trợ bởi một số chiến đấu cơ, tàu hộ tống.

Nhìn chung, việc Trung Quốc sử dụng “sức mạnh cơ bắp” xâm chiếm biển, đảo của Việt Nam và một số nước trong khu vực là không thể chấp nhận được. Trung Quốc cần tôn trọng sự thật lịch sử, luật pháp quốc tế, chấm dứt ngay lập tức việc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa và một số đảo, đá ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam.

RELATED ARTICLES

Tin mới