Sunday, September 29, 2024
Trang chủSự thật Trung HoaHọc theo Philippines, Malaysia và TQ lập cơ chế Đối thoại về...

Học theo Philippines, Malaysia và TQ lập cơ chế Đối thoại về Biển Đông

Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị (12/9) cho hay Trung Quốc và Malaysia đã đồng thuận thiết lập một cơ chế đối thoại chung để giải quyết các vấn đề tranh chấp ở Biển Đông.

Yêu sách về chủ quyền và lợi ích Biển Đông của Malaysia

Là một quốc gia biển điển hình, có đường bờ biển kéo dài, toàn bộ bờ biển phía Đông của Tây Malaysia cũng nhưu phía Bắc và phía Tây của Đông Malaysia, và khu vực biển gần đó đều thuộc Biển Đông. Đối với một Malaysia mà nền kinh tế quốc dân ở một mức độ lớn dựa trên tài nguyên dầu mỏ và thủy hải sản, Biển Đông có tầm quan trọng đặc biệt.

Lợi ích Biển Đông của Malaysia chủ yếu thể hiện ở 3 phương diện là ngành năng lượng, tuyến đường thương mại quốc tế và an ninh quốc phòng. Là nước sản xuất dầu khí lớn thứ hai ASEAN và nước xuất khẩu khí đốt lớn thứ 3 thế giới, gần như tất cả nguồn dầu khí của Malaysia đều đến từ Biển Đông.

Đầu tiên, tài nguyên dầu khí ở Biển Đông là trụ cột quan trọng trong việc phát triển kinh tế quốc gia của Malaysia. Số liệu chi tiết về “trữ lượng dầu thô và khí đốt của các nước tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông” do Cơ quan thông tin năng lượng Mỹ (EIA) công bố hồi tháng 4/2013 cho thấy, trữ lượng dầu khí của vùng biển mà Malaysia chiếm giữ là cao nhất tại Biển Đông. Từ những năm 70 của thế kỷ trước, trong số những nước xung quanh Biển Đông tranh giành nguồn dầu khí ở Biển Đông, Malaysia hành động sớm, tiến hành nhanh chóng, trở thành nước khai thác dầu khí nhiều nhất, hưởng lợi nhất ở Biển Đông. Năm 2009, sản lượng dầu của Malaysia ở Biển Đông vượt quá 30 triệu tấn, khí tự nhiên đạt gần 150 triệu m3. Đến năm 2014, số lượng giếng dầu mà Malaysia khai thác ở khu vực quần đảo Trường Sa lên đến gần 90 giếng, chiếm hơn một nửa so với tổng số giếng mà các nước Trung Quốc, Việt Nam, Philippines và Malaysia khai thác.

Là một quốc gia biển điển hình, kinh tế biển là một phần quan trọng trong việc thực hiện công nghiệp hóa đất nước của Malaysia, mà khai thác nguồn tài nguyên dầu khí của Biển Đông lại là nguồn thu nhập quan trọng của quốc gia. Cuối những năm 80 của thế kỷ trước, thu nhập từ dầu mỏ đã chiếm khoảng 20% thu nhập quốc gia của Malaysia. Số liệu thống kê và báo cáo phân tích của Cơ quan thông tin năng lượng Mỹ cho thấy trữ lượng dầu mỏ của Malaysia đứng vị trí thứ tư khu vực châu Á – Thái Bình Dương, chỉ đứng sau Trung Quốc, Ấn Độ và Việt Nam. Malaysia từ đó hy vọng phát triển thành trung tâm dự trữ, thương mại, phát triển dầu mỏ và khí tự nhiên của châu Á, điều này sẽ thu hút kỹ thuật chuyên nghiệp và dịch vụ hạ tầng có sức cạnh tranh. Đó chính là dựa vào nguồn dầu khí phong phú, Malaysia đưa ra “Tầm nhìn 2020”, mục tiêu chung của kế hoạch này là vào năm 2020 bước vào hàng ngũ các nước phát triển. Để thực hiện mục tiêu này, cần phải thúc đẩy mạnh mẽ trình độ công nghiệp hóa đất nước, thực hiện chuyển đổi nền kinh tế quốc gia, và trong ngành công nghiệp năng lượng, mục tiêu của Malaysia là xây dựng nền tảng thương mại và dự trữ năng lượng của châu Á, phát triển thành cường quốc năng lượng châu Á.

Có thể nói, “Tầm nhìn 2020” bắt đầu được đề xuất từ thời Mahathir bin Mohamad luôn là lá cờ tiên phong trong việc phát triển kinh tế của Malaysia, trong nhiều thập kỷ ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển trong mọi lĩnh vực của Malaysia. Tuy nhiên, nhìn vào hiệu quả kinh tế của Malaysia những năm gần đây thì ý nguyện này khó mà đạt được. Ngay sau đó vào đầu năm 2017, Thủ tướng đương nhiệm Najib Razak đề xuất “Kế hoạch chuyển đổi quốc gia năm 2050” để thay cho “Tầm nhìn 2020”. Mục tiêu thiết lập của “Kế hoạch chuyển đổi quốc gia năm 2050” là năm 2050, Malaysia sẽ trong danh sách 20 nước đứng đầu về kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên cho dù là “Tầm nhìn 2020” hay “Kế hoạch chuyển đổi quốc gia năm 2050”, thì việc thực hiện các mục tiêu to lớn này ở một mức độ rất lớn được quyết định bởi sự phát triển ổn định của ngành năng lượng Malaysia, mà Biển Đông lại là nguồn khai thác chủ yếu tài nguyên dầu khí của nước này. Về ý nghĩa này, Biển Đông là lợi ích then chốt của Malaysia.

Thứ hai, Biển Đông là một kênh quan trọng để Malaysia triển khai thương mại quốc tế. Biển Đông phía Đông tiếp giáp Thái Bình Dương, phía Tây tiếp nối với Ấn Độ Dương, tuyến đường Nam – Bắc của Biển Đông lại nối liền với khu vực Đông Á và châu Đại Dương. Vùng biển này là đầu mối thương mại trọng yếu của ASEAN, châu Á và khu vực châu Á – Thái Bình Dương, mà thương mại châu Á – Thái Bình Dương rõ ràng đã trở thành động cơ mạnh mẽ của sự phát triển kinh tế và thương mại khu vực. Các nước Đông Nam Á dựa vào Biển Đông để phát triển thương mại với Đông Á, Nam Á, Trung Đông và phương Tây, mạng lưới thương mại này nhờ Biển Đông mới có thể tồn tại. Malaysia ở vào vị trí xung yếu về giao thông giữa phương Đông và phương Tây, từ xa xưa đã chiếm vị trí vô cùng quan trọng trong mạng lưới thương mại quốc tế, và sự phát triển kinh tế của Malaysia ngày nay cũng phụ thuộc rất nhiều vào thương mại quốc tế. Là một trong những nước ven Biển Đông, Malaysia hiểu rõ được tầm quan trọng của vùng biển này đối với kinh tế khu vực và thương mại toàn cầu.

Ngoài ra, cùng với việc mức độ phụ thuộc của kinh tế Malaysia vào thương mại quốc tế ngày càng cao, Biển Đông là tuyến đường thương mại trên biển, đem lại nguồn lợi nhuận ổn định cho Malaysia, có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với Malaysia.

Thứ ba, thu nhập từ nguồn dầu khí Biển Đông đã nâng cao mức độ bảo vệ an ninh quốc phòng của Malaysia, đem lại năng lực và sự bảo đảm trong việc bảo vệ an ninh vùng biển tuyên bố chủ quyền của nước này. Những năm 70 của thế kỷ 20, các nước như Anh, Mỹ sau khi rút quân khỏi Đông Nam Á, để nâng cao mức độ phòng vệ của mình, Malaysia bắt đầu nhanh chóng phát triển lực lượng hải quân và không quân của nước này, chuyển hướng trọng tâm phòng vệ từ an ninh trong nước sang an ninh khu vực, và đặc biệt coi trọng an ninh vùng biển tuyên bố chủ quyền. Đến cuối những năm 1970, sức mạnh của hải quân Malaysia đã có sự cải thiện đáng kể, nhận thức về mở rộng trên biển theo đó cũng được tăng cường. Đồng thời, để nâng cao địa vị quốc tế của mình, Malaysia bắt đầu nỗ lực cho một sự phát triển sức mạnh hải quân và không quân mới, tuyên bố phải xây dựng một hải quân hiện đại hóa khiến mọi người kinh ngạc. Đến những năm 1990, trọng tâm chính sách quốc phòng của Malaysia đã hoàn toàn chuyển hướng sang biển. Đặc biệt là từ cuộc xung đột trên biển nỗ ra giữa Việt Nam và Trung Quốc năm 1988, xuất phát từ suy tính bảo vệ quyền lợi Biển Đông, Malaysia đã đặt vị trí của quần đảo Trường Sa từ thứ hai lên thành ưu tiên hàng đầu trong kế hoạch quốc phòng, và phát triển sức mạnh hải quân cũng trở thành lựa chọn quan trọng để nước này duy trì quyền lợi biển của chính phủ khóa trước.

Từ những năm 1990, Malaysia đẩy nhanh tốc độ xây dựng lực lượng biển, nỗ lực xây dựng một đội ngũ hải quân hiện đại. Sau khi bước vào thế kỷ mới, đặc biệt là 10 năm trở lại đây, Malaysia tiếp tục tăng cường sức mạnh quân sự. Số liệu thống kê năm 2011 cho thấy tổng quân số của hải quân Malaysia là hơn 10000; trang bị vũ khí vượt xa Việt Nam và Philippines. Malaysia còn có hai chiếc tàu ngầm điện – diesel lớp Scorpene, mang tên của hai vị tổng thống đầu tiên và thứ hai của Malaysia, có thể thấy chính phủ nước này rất kỳ vọng vào nó.

Nói về tình hình Biển Đông, Malaysia đã chiếm đóng trái phép một số hòn đảo và rạn san hô thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam, nhưng những hòn đảo này nằm ở phía Đông Nam của Biển Đông, cách xa lãnh thổ của họ, lực lượng phòng vệ rất yếu, không có lực lượng hải quân và không quân có sức răn đe mạnh mẽ để hậu thuẫn phòng vệ, đương nhiên là không thể duy trì được. Nhìn vào vị trí những hòn đảo mà Malaysia hiện đang chiếm đóng trái phép, rất có khả năng xảy ra xung đột tại khu vực Đá Công Đo, Đá Hoa Lau, Đảo An Bang của các nước đòi hỏi chủ quyền khác. Vùng Biển này là vị trí hàng đầu liên quan đến tranh chấp quyền lợi biển của Malaysia, một khi xảy ra xung đột quân sự, không cần nghi ngờ gì nữa, chắc chắn phải dựa vào lực lượng hải không và không quân giải quyết, việc này đòi hỏi Malaysia cần phải có lực lượng hải – không quân mạnh mẽ. Nhưng phát triển một lực lượng hải – không quân mạnh mẽ cần phải có sự hỗ trợ kinh tế hùng hậu, sự hỗ trợ này ở một mức độ rất lớn có được từ việc khai thác nguồn dầu khí ở Biển Đông. Thu nhập từ dầu khí ở Biển Đông giúp cho việc nâng cao năng lực phòng vệ, bảo vệ an ninh vùng biển đòi hỏi chủ quyền. Malaysia nhiều năm nay ra sức phát triển lực lượng hải – không quân cũng là vì bảo vệ lợi ích đã đạt được tại Biển Đông. Có thể nói, lợi ích kinh tế và bảo vệ an ninh tại Biển Đông của Malaysia là sự củng cố và hỗ trợ lẫn nhau.

Cơ chế Đối thoại về Biển Đông giữa Malaysia và Trung Quốc

Trong cuộc gặp với Bộ trưởng Ngoại giao Malaysia, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị cho rằng trong năm nay, căng thẳng ở Biển Đông đã giảm; cho rằng các nước ven biển và Trung Quốc cam kết tiếp tục giải quyết phù hợp vấn đề Biển Đông cũng như cùng bảo vệ nền an ninh và hòa bình khu vực, tiết lộ Trung Quốc và Malaysia đã đồng thuận thiết lập một cơ chế đối thoại chung để giải quyết các vấn đề tranh chấp ở Biển Đông, nhấn mạnh đây là nền tảng mới cho hoạt động đối thoại và hợp tác của hai bên; khẳng định Bộ quy tắc ứng xử của các bên trên Biển Đông (COC) là Bộ quy tắc trong khu vực giữa Trung Quốc và ASEAN, được xây dựng nhằm gìn giữ hòa bình và ổn định trên Biển Đông, là bản nâng cấp và mạnh hơn Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC); nhấn mạnh Trung Quốc sẽ nỗ lực cùng các nước ASEAN hoàn thành COC vào trước cuối năm 2021. Ngoài ra, ông Vương Nghị cho biết, cuộc hội đàm giữa hai bên “thẳng thắn, sâu sắc và đạt nhiều kết quả”; đánh giá quan hệ Trung Quốc, Malaysia là một trong những mối quan hệ đối tác “giàu nội hàm và sức sống nhất” trong khu vực; cho biết, hai bên đã đạt nhất trí trên 5 lĩnh vực, như làm sâu sắc hơn hợp tác trong khuôn khổ Sáng kiến “Vành đai và Con đường”, nâng tầm và mở rộng hợp tác trong các lĩnh vực truyền thống, như kinh tế số, trí tuệ nhân tạo, chế tạo ô tô, nông ngư nghiệp…; tăng cường hợp tác học hỏi trong lĩnh vực văn hóa, văn minh; giải quyết ổn thỏa các bất đồng và tranh chấp, gìn giữ hòa bình ổn định; thúc đẩy hợp tác khu vực Đông Á; phát huy giá trị của châu Á và bảo vệ công bằng quốc tế.

Trong khi đó, Bộ trưởng Abdullah gọi ông Vương là “người anh của tôi’ và cho biết cơ chế mới sẽ được Bộ Ngoại giao Trung Quốc và Malaysia chỉ đạo. Theo ông Abdullah , “các quan chức hai nước sẽ thảo luận chi tiết, nhưng tôi nghĩ đây là một kết quả quan trọng cho cuộc gặp ngày hôm nay cũng như khoảng thời gian 45 năm hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao”; đồng thời cho biết “về COC, chúng tôi đang làm việc cùng một tiến độ. Chúng tôi đảm bảo sẽ đi đến một kết thúc tích cực. Chúng tôi đã đặt thời hạn trong một hai năm tới, nhưng với những hiểu biết đúng đắn của ASEAN và Trung Quốc, tôi chắc chắn chúng ta có thể thực hiện được cùng nhau”.

Đáng chú ý, việc Trung Quốc và Malaysia thiết lập một cơ chế đối thoại chung để giải quyết các vấn đề tranh chấp ở Biển Đông được cho là đi ngược lại tuyên bố của Malaysia về vấn đề Biển Đông. Vào tháng 4/2019, Ngoại trưởng Malaysia Abdullah khẳng định nước này sẽ không thảo luận về tranh chấp ở Biển Đông theo hình thức song phương với Trung Quốc. Không những vậy, giữa Malaysia và Trung Quốc vừa có căng thẳng xung quanh chuyện khai thác dầu khí ở Biển Đông. Tàu hải cảnh Trung Quốc trong tháng 7 cản trở giàn khoan cùng tàu dịch vụ hộ tống của Malaysia tại khu vực bãi cạn Luconia – nơi có lô dầu khí được quốc gia Đông Nam Á này cấp phép cho Công ty Sarawak Shell.

Trước đây, Malaysia từng có những tuyên bố mạnh mẽ chỉ trích quan điểm của Trung Quốc ở Biển Đông. Nhưng trong thời gian gần đây, Malaysia không còn công khai lên tiếng về hành động bành trướng của Trung Quốc ở vùng biển chiến lược. Nguyên nhân có thể xuất phát từ việc Trung Quốc đã đổ hàng tỷ USD vào các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng ở Malaysia theo “Sáng kiến Vành đai và Con đường”. Trung Quốc hiện là đối tác thương mại lớn nhất của Malaysia. Hồi tháng Bảy, sau hơn một năm trì hoãn, Trung Quốc và Malaysia đã nối lại hoạt động xây dựng dự án đường sát ở phía bắc Malaysia. Đây là một phần trong dự án Vành đai và Con đường của Trung Quốc. Thậm chí, hai nước còn ký kết một thỏa thuận “khá hiếm” khi cắt bỏ gần 1/3 chi phí xây dựng tuyến đường sắt này, xuống còn 11 tỉ USD.

Cơ chế tham vấn song phương Trung Quốc – Philippines

Trong chuyến thăm Trung Quốc của Tổng thống Duterte (10/2016), hai bên đã ra Tuyên bố chung, trong đó cho biết Bắc Kinh và Manila sẽ thành lập một Cơ chế tham vấn song phương, được họp thường kỳ về các vấn đề thời sự và vấn đề khác mà mỗi bên quan tâm liên quan vấn đề Biển Đông”. Đến tháng 1/2017, Trung Quốc và Philippines chính thức xác nhận lãnh đạo hai nước đã thống nhất thiết lập Cơ chế tham vấn song phương về vấn đề Biển Đông, nhằm thúc đẩy lòng tin và hợp tác vì hòa bình và sự ổn định trong khu vực. Cuộc tham vấn lần đầu diễn ra tại Quý Châu (Trung Quốc) vào tháng 5/2015, do Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Lưu Chấn Dân và Đại sứ Philippines tại Trung Quốc Jose Santiago L. Sta. Romana chủ trì. Tại vòng tham vấn này, hai bên đã đánh giá, trao đổi quan điểm liên quan vấn đề Biển Đông, thảo luận khả năng hợp tác hàng hải và việc thiết lập các nhóm công tác kỹ thuật liên quan, nhất trí các vòng tham vấn tiếp theo sẽ diễn ra luân phiên ở Trung Quốc và Philippines, trong khoảng thời gian 6 tháng một lần. Đại sứ Santa Romana cho biết hai bên đã thảo luận về nhiều vấn đề nhạy cảm liên quan đến Biển Đông song chưa đạt được thỏa thuận nào đáng kể. Trung Quốc và Philippines nhất trí sẽ tổ chức các phiên tham với tần suất 2 lần/năm nhằm “tạo cơ hội để trao đổi quan điểm” về Biển Đông. Cuộc tham vấn thứ hai ở Manila vào tháng 2/2018, do Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Khổng Huyễn Hựu và Thứ trưởng Ngoại giao Philippines Enrique A. Manalo là đồng chủ tọa. Tại vòng tham vấn, hai bên đã trao đổi các sáng kiến chung liên quan vấn đề Biển Đông và đạt được thỏa thuận về việc triệu tập các nhóm công tác kỹ thuật trong những lĩnh vực như ngư nghiệp, dầu khí, nghiên cứu khoa học biển và bảo vệ môi trường biển và an ninh chính trị. Giới truyền thông cho rằng nhiều khả năng Trung Quốc và Philippines đã đồng ý thiết lập một ủy ban đặc biệt để tìm ra cách cùng thăm dò dầu khí ở Biển Đông mà không thiên vị tuyên bố chủ quyền của bên nào trong khu vực. Cuộc tham vấn thứ ba ở Trung Quốc vào ngày 18/10/2018. Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Khổng Huyễn Hựu và Thứ trưởng Ngoại giao Philippines Enrique Manalo dẫn đầu hai đoàn gồm đại diện các đơn vị quốc phòng, tài nguyên và môi trường, nghề cá, giao thông, năng lượng, cảnh sát biển của hai bên tham dự BCM. Tại cuộc họp lần này, hai bên đã trao đổi về tình hình hiện nay và các mối lo ngại ở Biển Đông cũng như thảo luận về vấn đề hợp tác biển, trong đó có khai thác chung dầu, khí.

Sau nhiều vòng đàm phán, Trung Quốc và Philippines vẫn chưa đạt được kết quả khả quan. Tính đến thời điểm hiện tại, các vòng tham vấn mới chỉ mang tính chất trao đổi quan điểm của hai nước về vấn đề Biển Đông và tìm kiếm cơ hội hợp tác trong một số lĩnh vực như ngư nghiệp, dầu khí, bảo vệ môi trường và tăng cường lòng tin chính trị giữa hai nước. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh cho biết, Trung Quốc đã sẵn sàng cùng Philippines tăng cường trao đổi, đối thoại, quản lý và kiểm soát thỏa đáng bất đồng, thúc đẩy hợp tác biển, tạo không khí tốt đẹp cho hợp tác thiết thực giữa hai bên trên các lĩnh vực. Trong đó, hai nước sẽ thúc đẩy hợp tác liên quan cảnh sát biển nhằm làm sâu sắc lòng tin giữa hai nước, tăng cường tình hữu nghị song phương, đồng thời tạo động lực tích cực cho phát triển lành mạnh, ổn định quan hệ Trung Quốc – Philippines. Có lẽ thành quả lớn nhất trong hai vòng đàm phán vừa qua là các công ty của Trung Quốc và Philippines đang trao đổi thỏa thuận thăm dò dầu khí tại lô 57 và lô 72 (nằm trong vùng tranh chấp ở Bãi Cỏ Rong – Reed Bank) của Philippines.

Giới chuyên gia nhận định, Trung Quốc thúc đẩy Cơ chế tham vấn song phương về vấn đề Biển Đông là nhằm tuyên truyền và tái khẳng định việc giải quyết tranh chấp ở Biển Đông nên được thực hiện thông qua đàm phán và tham vấn giữa các nước liên quan trực tiếp; thông qua tham vấn để phản bác và chỉ trích Mỹ và một số nước can thiệp vào tranh chấp ở Biển Đông, nhấn mạnh rằng Trung Quốc và ASEAN có thể “tự giải quyết ổn thỏa” các tranh chấp mà không cần sự can thiệp từ bên ngoài; củng cố quan điểm rằng các tranh chấp Biển Đông chỉ liên quan đến Trung Quốc và một số nước ASEAN; từng bước phản bác quán quyết của Tòa trọng tài. Giới chuyên gia quốc tế cho rằng với việc lôi kéo Philippines, Malaysia tham gia đối thoại song phương để giải quyết tranh chấp cho thấy Trung Quốc đã thành công trong việc chia rẽ ASEAN trong vấn đề Biển Đông và Philippines đang làm suy yếu vị thế trên bàn đối thoại của các nước ASEAN đang theo đuổi giải pháp đàm phán đa phương về vấn đề này.

RELATED ARTICLES

Tin mới