Monday, November 25, 2024
Trang chủSự thật Trung HoaTQ lấy đâu ra tư cách để phản đối Mỹ tuần tra...

TQ lấy đâu ra tư cách để phản đối Mỹ tuần tra ở quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam

Sau khi Mỹ (13/9) điều khu trục hạm mang tên lửa dẫn đường USS Wayne E. Meyer áp sát khu vực quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam nhằm thách thức các yêu sách chủ quyền phi pháp của Trung Quốc ở vùng biển này, Bắc Kinh đã ngang ngược đưa ra các tuyên bố phản đối, chỉ trích hành động của Washington. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là Trung Quốc lấy đâu ra tư cách để phản đối hành động của Mỹ.

Tàu khu trục mang tên lửa dẫn đường USS Wayne E. Meyer của Mỹ

Trung Quốc ngang ngược chỉ trích Mỹ

Ngay sau khi tàu chiến của Mỹ áp sát khu vực quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, Người phát ngôn Chiến khu Nam Bộ của Trung Quốc Lý Hoa Dân đã đang ngược đưa ra tuyên bố chỉ trích Mỹ. Theo ông Lý Hoa Dân, việc tàu khu trục USS Wayne E. Meyer hiện diện ở gần quần đảo Hoàng Sa là “chưa được sự cho phép của chính phủ Trung Quốc”; cho rằng Mỹ đã và đang áp đặt “bá quyền hàng hải” trên biển Hoa Nam (cách Trung Quốc gọi biển Đông) trong thời gian dài bằng việc bỏ qua luật lệ quốc tế. Hành động của Mỹ xâm phạm nghiêm trọng đến quyền tài phán của Trung Quốc; cũng như cho thấy sự thiếu thiện chí của Mỹ trong duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực và trên thế giới. Ông Lý còn cho biết Hải quân và Không quân Trung Quốc đã theo dõi, định danh, giám sát, cảnh báo và sau đó trục xuất tàu chiến Mỹ; nhấn mạnh “Trung Quốc sẽ sử dụng mọi biện pháp cần thiết để bảo vệ chủ quyền và an ninh quốc gia, cũng như là hòa bình và ổn định trên Biển Đông”.

Trước đó, Người phát ngôn Hạm đội 7 Hải quân Mỹ Reann Mommsen (13/9) khẳng định sự xuất hiện của tàu USS Wayne E. Meyer là lời thách thức của Mỹ với hành động hạn chế quyền qua lại vô hại của Trung Quốc cũng như không thừa nhận tuyên bố của Bắc Kinh đối với cái gọi là đường cơ sở bao quanh quần đảo Hoàng Sa.

Quần đảo Hoàng Sa là của Việt Nam

Trên thực tế, thế giới chưa bao giờ công nhận chủ quyền của Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa và các vùng biển lân cận. Đồng thời, Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử khẳng định chủ quyền và quyền chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Theo Bộ Ngoại giao, chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa lần đầu tiên được thiết lập vào khoảng giữa thế kỷ thứ 15 và 18; các hoàng đế Gia Long và Minh Mạng đã tổ chức các nghi lễ tôn giáo ở đâ vào thế kỷ thứ 19; sau đó nằm dưới sự quản lý tạm thời của người Pháp vào khoảng nửa cuối thế kỷ 19 và nửa đầu thế kỷ 20; và sau cùng thì tiếp tục được quản lý một cách công khai, hoà bình và bình thường bởi nước Việt Nam độc lập. Các hoạt động trong đó bao gồm: (1) Phê duyệt các hợp đồng thương mại quốc tế đối với các hoạt động kinh tế của quần đảo; (2) tiến hành các hoạt động thực thi pháp luật đối với việc xâm nhập phi pháp của người dân Trung Quốc và ngăn chặn buôn lậu vũ khí và thuốc phiện; (3) thực hiện khai thác có hệ thống các nguồn tài nguyên thiên nhiên trên đảo; (4) tổ chức các hoạt động bảo trợ cho các quốc gia khác; (5) đặt quân đội đồn trú và chính quyền dân sự trên đảo; (6) đấu tranh chống lại các cuộc xâm lược của Trung Quốc và Nhật Bản; (7) xây dựng miếu thờ và đền thờ; (8) thu thuế; (9) tổ chức và thực hiện các cuộc khảo sát và nghiên cứu khoa học ở quần đảo này; (10) tổ chức và thực hiện khảo sát thuỷ văn đối với các tuyến đường biển và trồng câ trên các đảo để tăng cường an toàn giao thông hàng hải; (11) triển khai các hoạt động cứu trợ tàu bè nước ngoài gặp nạn trên biển; và (12) đảm bảo an toàn cho các tuyến đường giao thông trên biển.

Việt Nam khẳng định rằng Pháp, là quốc gia đại diện cho Việt Nam, đã tiến hành rất nhiều các hoạt động khác nhau để khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa, điển hình như năm 1933, Pháp đã chính thức sáp nhập và chiếm đóng một số thực thể ở quần đảo này nhân danh Việt Nam. Vào thời điểm đó, việc sáp nhập các đảo hoàn toàn tuân thủ đúng theo luật pháp quốc tế hiện hành và thực tiễn quốc gia. Mặc dù, Nhật Bản giành được quyền kiểm soát quần đảo từ Pháp đến năm 1951, tuy nhiên sau Hội Nghị Hoà bình San Francisco diễn ra năm 1951 thì Nhật Bản đã buộc phải từ bỏ quyền kiểm soát của mình và chủ quyền đối với quần đảo được trao trả lại cho Pháp. Thời gian sau đó, các hoạt động của người Pháp và Việt Nam, cả trước và sau chiến tranh, rõ ràng đã cho thấy sự hiện diện thực tế và được duy trì liên tục , cũng như việc thực thi chủ quyền một cách hoà bình đối với quần đảo Trường Sa.

Sau khi Pháp chính thức chuyển giao quyền bảo vệ quần đảo Hoàng Sa cho quân đội của Việt Nam. Thủ tướng Trần Văn Hữu tái khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với uần đảo Trường Sa và Hoàng Sa tại Hội nghị Hòa Bình San Francisco. Không một quốc gia nào trong số 51 quốc gia tham dự Hội nghị phản đối tuyên bố này, ngoài ra cũng không có bất kỳ bằng chứng nào cho thấ Trung Hoa Dân Quốc đã từng phản đối tuyên bố trên. Vào thời điểm đó, Trung Hoa Dân quốc là đại diện của Trung quốc tại Liên Hợp quốc.

Hải quân Việt Nam đã đảm trách nhiệm vụ phòng thủ các quần đảo vào tháng 8/1965, và quân đội miền Nam Việt Nam đã chốt giữ Đảo Hoàng Sa (Pattle) và đảo Hữu Nhật (Robert) lần lượt vào tháng và tháng 7 năm 1956. Cùng năm đó, Bộ Khai khoáng, Công nghệ và Công nghiệp Nhẹ đã tiến hành khảo sát trên các Đảo Hoàng Sa (Pattle), Đảo Quang Ánh (Mone ), Đảo Hữu Nhật (Robert) và Đảo Duy Mộng (Drumond) thuộc quần đảo Hoàng Sa. Sau đó, Thủ quân lục chiến Việt Nam Cộng   Hòa tiếp tục nhiệm vụ phòng vệ các đảo này.

Việc Trung Quốc liên tục có hành động xâm phạm quần đảo Hoàng Sa những năm 1970 đã khiến miền Nam Việt Nam tái khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa trong tuyên bố ngày 15/7/1979797. Tháng 5 năm đó, quân đội Việt Nam tiến hành khảo sát tại quần đảo Tri Tôn. Một tuyên bố dài đã được công bố buộc tội cộng sản Trung Quốc đã xâm lược Hoàng Sa vào ngày 21/1/1974. Một Công hàm ngoại giao cũng được gửi tới các bên tham gia ký kết Hiệp định Hòa bình Paris 1973, kêu gọi tổ chức một phiên họp đặc biệt của Hội đồng Bảo an. Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam cũng bà tỏ quan ngại của mình, mặc dù có chừng mực, về hành động xâm phạm củaTrung Quốc. Cũng trong năm 1974, miền Nam Việt Nam tái khẳng định chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa trong cuộc họp của Ủ ban Kinh tế về Vùng Viễn Đông vào tháng Ba và cuộc họp của Hội nghị Liên Hợp quốc về Luật Biển lần thứ 3 vào tháng 7.

Sau khi Pháp rút uân ra khỏi Đông Dương vào năm 1956, miền Nam Việt Nam cũng bắt đầu thi hành chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa với tư cách là nước kế thừa yêu sách chủ quyền của Pháp, chiểu theo các tuyên bố của Pháp trước đó. Vào 1/6/1956, Việt Nam Cộng hòa khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa sau khi Tomas Cloma thiết lập cái ng gọi là “Vùng Đất Tự Do” (Freedomland) ở phần phía Đông của quần đảo này. Sau đó vào giữa tháng 6, Bộ trưởng Ngoại giao miền Nam Việt Nam tái khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với chuỗi đảo trên. Vào tháng 10, tỉnh Phước Tu được giao quyền quản lý quần đảo Trường Sa theo Nghị định số 143/NV ngày 22/10/1956. Hải quân miền Nam Việt Nam đã triển khai hàng loạt hoạt động để tái khẳng định quyền kiểm soát đối với quần đảo Trường Sa trước việc Trung Quốc và Philippines tăng cường xâm nhập Trường Sa (Đảo Ba Bình (Itu Aba) và Vùng đất tự do (Freedomland)). Tháng 8/1956, các thủ thủ của tàu tuần dương Tụ Động được giao nhiệm vụ dựng bia chủ quyền và kéo cờ Việt Nam trên nhiều đảo ở quần đảo Trường Sa. Năm 1961, thủy thủ đoàn của tàu Vạn Kiếp và Vân Đồn đã đổ bộ lên đảo Song Tử Tây, Đảo Thị Tứ và đảo Loại ta và đảo An Bang dựng bia chủ quyền và treo cờ Việt Nam. Thủ thủ của tàu Tụ Động và Tây Kết cũng thực hiện hành động tương tự vào năm 1962 ở đảo Trường Sa và đảo Nam Yết. Vào năm 1963, thủ thủ đoàn của các tàu Hải quân: Hương Giang, Chi Lăng, và Kỳ Hoa đã dựng lại bia chủ quyền tại tất cả các đảo chính ở quần đảo Trường Sa (Đảo Trường Sa 19/5/1963; Đảo An Bang 20/5/1963; Đảo Thị Tứ và Loại ta 22/5/1963; Song Tử Đông và Song Tử Tây 2/5/1963). Hoạt động tuần tra hải quân thường xuyên diễn ra tại các đảo này trong suốt năm 1960, mặc dù hoạt động tuần tra thường xuyên nà đã giảm đi đáng kể sau 1963 do các xung đột đang diễn ra với miền Bắc Việt Nam. Các đơn vị của hải quân Việt Nam cũng tiến hành một số khảo sát và chuyến thám hiểm để vẽ bản đồ tại khu vực nà từ 1960 đến 1967.

Trước sự phản đối liên tục từ các bên yêu sách khác ở quần đảo Trường Sa trong suốt những năm 1970, chính quyền Sài Gòn đã có những phản ứng đanh thép hơn. Vào 20/4/1971, Bộ Ngoại giao gửi công hàm ngoại giao cho chính phủ Malaysia thể hiện lập trường của Việt Nam về những yêu sách chủ quyền đối với quần đảo này. Ba tháng sau, trong một tuyên bố ngày 15/7/1971, Bộ Ngoại giao tiếp tục khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với uần đảo Trường Sa. Vào tháng 5/1973, Việt Nam tiến hành các khảo sát ở Đảo Thị Tứ (Pagasa), Đảo Loại Ta, Đảo Song Tử Đông và vào tháng 7, Việt Nam đã chiếm giữ Đảo Nam Yết ở quần đảo Trường Sa. Cũng trong tháng 7, Bộ phát triển Nông nghiệp và Viện Nghiên cứu Nông nghiệp đã tiến hành một khảo sát tại Đảo Nam Yết. Sau đó, vào 6/9/1973, quần đảo Trường Sa được sáp nhập vào tỉnh Phước Tu (Nghị định số 420 – BNV/HCDP/26). Các công hàm ngoại giao cũng được gửi tới Đài Loan (29/1/1973) và Philippines (12/2/1973) phản đối các yêu sách vêg căn cứ của Đài Bắc và Manila đối với quần đảo Trường Sa.

Với thực tế trên, các bên yêu sách khác ở Biển Đông không thể lập luận rằng miền Nam Việt Nam đã không thực thi quyền kiểm soát hữu hiệu đối với các đảo ở Biển Đông, hoặc Sài Gòn có ý định từ bỏ các êu sách đối với hai quần đảo trên.

Sau khi thống nhất đất nước năm 1975, Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam kế thừa chủ quyền của miền Nam Việt Nam đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, và tiếp tục khẳng định chủ u ền đối với hai quần đảo này. Quân đội miền Bắc Việt Nam thay thế các đơn vị đồn trú của chính quyền miền Nam Việt Nam tại đảo Song Tử Tây, đảo Sơn Ca, đảo Sinh Tồn, đảo Trường Sa và đảo An Bang.

Vào tháng 5/1975, chính phủ Việt Nam sáp nhập quần đảo Paracels và Spratlys vào lãnh thổ của Việt Nam và đổi tên thành quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tháng 3/1976, Việt Nam sáp nhập quần đảo Trường Sa vào tỉnh Đồng Nai. Ngày 12/5/1977, chính phủ Việt Nam ra Tuyên bố về Vùng Lãnh hải, Vùng tiếp giáp Lãnh hải, Vùng Đặc quyền kinh tế và Vùng thềm lục địa – trong đó tái khẳng định Hoàng Sa và Trường Sa là một phần lãnh thổ không thể tách rời của Việt Nam.

Vào tháng 9/1982, quần đảo Trường Sa được đặt dưới quyền quản lý của tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng. Hai tháng sau đó, Chính phủ Việt nam đã ra một tuyên bố về đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải của Việt Nam, bao gồm cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sau đó, vào ngày 25/3/1983, Việt Nam phản đối yêu sách của Malaysia đối với 3 đảo nhỏ thuộc quần đảo này. Đểthể hiện chủ quyền quân đội Việt Nam lần lượt chốt giữ tại Đá Bo, Đảo Đá Tây, Đá Lát, Đá Tiên Nữ, Đảo Đá Đông, Đá Núi Le, Đá Cô Lin, Đá Len Đao, Đá Tốc Tan, Đá Núi Thị, Đá Nam, Bãi Phúc Tần, Bãi Cái Mép và Bãi Tư Chính từ 1987 đến tháng 7/1989 để chống lại việc Trung Quốc liên tục xâm phạm các đảo. Bên cạnh đó, các đội đánh bắt cá do chính phủ tổ chức cũng được triển khai đến khai thác hải sản tại Biển Đông. Chính phủ cũng xây dựng hàng loạt các cơ sở dân dụng, gồm các trạm nghiên cứu khoa học và hải đăng trên một số đảo Việt Nam chiếm giữ.

Các hành động chính thức, các nghị quyết, luật và trao đổi ngoại giao,…mà Việt Nam thực hiện từ khi đất nước được thống nhất đã tiếp tục thể hiện chủ quyền của Việt Nam đối với cả hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Tuyên bố phê chuẩn Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1992 của Việt Nam cũng tái khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với các quần đảo tranh chấp. Tương tự, Việt Nam cũng gửi Công hàm lên Liên Hợp Quốc vào tháng 8/1998 phản đối việc Trung Quốc ban hành Luật về Vùng Đặc quyền Kinh tế và Thềm Lục địa của CHND Trung Hoa năm 1998, trong đó khẳng định Việt Nam có chủ quyền không thể tranh cãi với hai nhóm quần đảo trên. Ngày 3/12/2007, Việt Nam cương quyết phản đối quyết định của Trung Quốc thành lập thành phố Tam Sa để quản lý quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Tương tự, 12/3/2009, Việt Nam phản đối Philippines công bố đường cơ sở quần đảo mới, trong đó coi một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa là thuộc lãnh thổ Philippines. Ngày 8/5/2009, Việt Nam gửi Công hàm ngoại giao đến Tổng thư ký Liên Hợp Quốc phản đối “đường chữ U” của Trung Quốc trên Biển Đông và tái khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ngoài ra, Luật Biển mới của Việt Nam (2012) cũng đặc biệt áp dụng cho cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Dựa vào các thực tế trên, rõ ràng rằng Việt Nam (thống nhất) không từ bỏ quyền các yêu sách hợp pháp của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở Biển Đông.

Từ những vấn đề trên cho thấy, Trung Quốc không có chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và các vùng nước phụ cận. Việc Trung Quốc sử dụng vũ lực xâm chiếm biển, đảo của Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục bị cộng đồng quốc tế lên án, chỉ trích và không công nhận “chủ quyền” này. Đương nhiên, với việc không có chủ quyền đối với vùng biển này, thì Trung Quốc cũng không có tư cách để phản đối hoặc chỉ trích hoạt động của các nước ở quần đảo Hoàng Sa. Trung Quốc cần phải xem lại, ai mới là nước làm căng thẳng trong khu vực, ai mới là nước quân sự hóa phi pháp ở Biển Đông và ai mới là kẻ thực hiện bá quyền ở Biển Đông, sử dụng vũ lực xâm chiếm biển đảo của nước khác.

RELATED ARTICLES

Tin mới