Sáng 6.10, Viện Nghiên cứu chính sách luật pháp và phát triển (PLD) thuộc Liên hiệp Các hội khoa học kỹ thuật VN tổ chức tọa đàm khoa học “Vùng biển bãi Tư Chính và luật pháp quốc tế”.
Hai tàu hải cảnh 5901, 46303 của Trung Quốc dàn đội hình ngăn chặn các tàu chấp pháp VN vào đẩy đuổi, ngăn chặn tàu Hải Dương Địa chất 8 khảo sát trái phép trên vùng biển Tư Chính – Phúc Tần của VN, tháng 9.2019
Giẫm đạp lên luật pháp quốc tế
Phát biểu tại tọa đàm, thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược (Bộ Công an), nhấn mạnh tình huống hiện nay (nhóm tàu Hải Dương Địa chất 8 xâm phạm ở khu vực bãi Tư Chính) nguy hiểm hơn việc Trung Quốc năm 2014 đưa giàn khoan Haiyang Shiyou-981 xâm phạm chủ quyền VN trên Biển Đông. Bởi vì khu vực bãi Tư Chính, hay rộng hơn là vùng biển nam Biển Đông, vốn hoàn toàn nằm trong vùng 200 hải lý đặc quyền kinh tế và thềm lục địa VN, tính từ đất liền.
Trung Quốc có nhiều luận điệu về vấn đề Biển Đông. Trong đó, luận điệu quần đảo Trường Sa thuộc về Trung Quốc, là “2 lần sai”, theo thiếu tướng Lê Văn Cương. Cái sai thứ nhất, là theo Công ước LHQ về luật Biển (UNCLOS) 1982, quần đảo Trường Sa không được hưởng quy chế quốc gia quần đảo, nên không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 200 hải lý. Và cái sai thứ hai, đương nhiên, là quần đảo Trường Sa không thuộc về Trung Quốc. VN có đầy đủ bằng chứng lịch sử và pháp lý để khẳng định chủ quyền với quần đảo này.
Nhiều năm qua, Trung Quốc có rất nhiều luận điệu ngang ngược để đòi độc chiếm Biển Đông. Trong đó, theo một số nhà nghiên cứu trong nước và quốc tế, thì yêu sách “Tứ Sa” là nguy hiểm hơn cả, bởi phạm vi của nó còn rộng lớn hơn nhiều so với yêu sách đường 9 đoạn – vốn đã chiếm tới 80% Biển Đông. Minh chứng là vùng hoạt động của tàu Hải Dương Địa chất 8 hiện không nằm trong phạm vi đường 9 đoạn, nhưng nó lại nằm trong yêu sách “Tứ Sa”. Đến thời điểm này, cả Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị và người phát ngôn Bộ Ngoại giao của nước này Cảnh Sảng đều đã khẳng định yêu sách “Tứ Sa”, thể hiện rõ dã tâm biến Biển Đông thành “ao nhà”.
Theo yêu sách này, Trung Quốc tuyên bố chủ quyền với 4 nhóm cấu trúc ở Biển Đông mà họ gọi là “Tứ Sa”, trong đó có quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của VN. Trung Quốc yêu sách các cấu trúc này là một thực thể pháp lý đơn nhất, đủ điều kiện để có đường cơ sở thẳng bao quanh. Từ đó, Bắc Kinh có thể thiết lập vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng của quần đảo, chồng lấn với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của VN, tính từ đất liền.
Cùng với đó, Trung Quốc cũng yêu sách cả chủ quyền với các thực thể ngầm, như bãi Tư Chính của VN. Yêu sách của Trung Quốc là trong khu vực này, VN không có quyền khai thác, quản lý và bảo vệ tài nguyên mà phải “gác tranh chấp cùng khai thác” với Trung Quốc.
Với luận điệu như vậy, Trung Quốc có dã tâm biến vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của VN trở thành vùng chồng lấn, tranh chấp và lao vào đòi quyền “cùng khai thác”; trong khi theo UNCLOS 1982, đó là đặc quyền, độc quyền của VN. UNCLOS 1982 quy định ngay cả nếu VN không tiến hành khảo sát, thăm dò, khai thác tài nguyên ở vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình, thì cũng không một quốc gia nào khác có thể tiến hành các hoạt động này mà không có sự cho phép rõ ràng của VN. Yêu sách này giẫm đạp lên luật pháp quốc tế.
Theo luật sư (LS) Hoàng Ngọc Giao, Viện trưởng PLD, UNCLOS 1982 đã quy định chỉ có quốc gia quần đảo mới có quyền thiết lập đường cơ sở quần đảo bao quanh và từ đó thiết lập vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng. Quy định của UNCLOS cũng như khái niệm quốc gia quần đảo đã loại trừ khả năng Trung Quốc có thể áp dụng quy chế quần đảo với “Tứ Sa”; chưa kể đến cái gọi là “Tứ Sa” đó không phải chủ quyền của Trung Quốc.
Phán quyết của Tòa Trọng tài năm 2006 cũng đã khẳng định Trung Quốc không phải quốc gia quần đảo nên không có quyền thiết lập đường cơ sở thẳng bao quanh quần đảo Trường Sa để mà đưa ra yêu sách.
Đưa Trung Quốc ra Hội đồng Bảo an
Tuy nhiên, vấn đề là dã tâm của Trung Quốc với Biển Đông sẽ không dừng lại. Theo ông Trương Triều Dương, nguyên Đại sứ VN tại Philippines, làm chủ Biển Đông sẽ là điều Trung Quốc “cố sống, cố chết” làm, vì đó là con đường duy nhất để Trung Quốc trở thành cường quốc trên biển, cơ sở quan trọng cho tham vọng cường quốc đứng đầu thế giới.
Ngoài việc Biển Đông là con đường hàng hải lớn nhất nhì thế giới, là bãi đánh cá lớn nhất thế giới, bể chứa dầu mỏ, thì Đại sứ Trương Triều Dương cho rằng đáy Biển Đông có một trữ lượng đất hiếm cực kỳ lớn mà nếu Trung Quốc chiếm được, đồng nghĩa với việc sẽ nắm giữ toàn bộ trữ lượng đất hiếm trên thế giới. Điều này đồng nghĩa với việc nắm được “cổ họng” của tất cả các nước, đặc biệt là các quốc gia phát triển. Thêm vào đó, các rãnh sâu ở khu vực quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của VN cũng là nơi lý tưởng để tàu ngầm hoạt động.
Những phân tích trên đây cho thấy VN cần có những hành động tiếp theo, và theo nhiều chuyên gia, đó là con đường khởi kiện.
Theo LS Hoàng Ngọc Giao, Trung Quốc đã vi phạm Hiến chương LHQ, và điều VN có thể làm là đưa Trung Quốc ra Hội đồng bảo an (HĐBA) LHQ. “Hiến chương LHQ nói rất rõ mà đây là một nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, là các quốc gia thành viên LHQ từ bỏ đe dọa bằng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế để chống lại quyền bất khả xâm phạm và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi quốc gia. Hành vi của Trung Quốc ở Biển Đông từ trước đến nay, và đặc biệt sự việc hiện nay ở bãi Tư Chính, là hành vi vừa đe dọa dùng vũ lực, vừa dùng vũ lực bằng việc các tàu hải cảnh, dân binh… vào vùng đặc quyền kinh tế của VN. Phản ứng của quốc tế cũng nhìn nhận đây là hành vi đe dọa hòa bình, thách thức an ninh khu vực và vi phạm nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế. Trung Quốc cũng không chỉ xâm phạm vùng biển VN, mà còn cả vùng biển của Malaysia và Philippines”, LS Giao nói.
Chưa kể, theo LS Giao, hành động tôn tạo các đảo, bãi đá ngầm mà Trung Quốc xâm chiếm trái phép cũng gây thiệt hại rất lớn cho tài nguyên môi trường biển, vì đây cũng là lý do có thể kiện Trung Quốc ra tòa.
“VN cần tận dụng cơ chế của HĐBA, theo Hiến chương LHQ từ điều 33.1 – 33.4 và điều 35, HĐBA có thẩm quyền theo đề nghị của các quốc gia xem xét những tình huống đe dọa hòa bình, an ninh khu vực, quốc tế. Đây là một cơ chế chúng ta cần tận dụng. Cần đưa câu chuyện về hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ở Biển Đông ra trước HĐBA LHQ”, ông Giao khuyến nghị và cho rằng cơ hội đang đến bởi VN là Ủy viên không thường trực của HĐBA nhiệm kỳ 2020 – 2021.
Mặc dù một số chuyên gia am hiểu Hiến chương LHQ cho rằng Trung Quốc là Ủy viên Thường trực HĐBA và có quyền Veto (quyền phủ quyết), nhưng theo LS Giao, VN không nhất thiết phải hướng tới một nghị quyết của HĐBA về vấn đề Biển Đông (mà Trung Quốc có quyền phủ quyết), chỉ cần đưa được vấn đề này ra chương trình nghị sự của HĐBA.
“Theo điều 27.2 của Hiến chương thì những vấn đề thuộc về thủ tục không cần áp dụng cơ chế Veto, cho nên chỉ cần 9/15 thành viên đồng ý là có thể đưa vào chương trình nghị sự của Hội đồng. Theo tôi, đây là biện pháp cấp bách nhất hiện nay trước tình hình bãi Tư Chính. Làm được điều này, vấn đề Biển Đông sẽ được quốc tế hóa, người ta phải thảo luận thực sự, phải nêu đích danh Trung Quốc, nêu hành vi của Trung Quốc, để Trung Quốc không còn dùng truyền thông, tiền bạc lu loa lên đó là khu vực tranh chấp”, ông Giao khuyến nghị.
Ông Giao còn cho rằng đây cũng là một biện pháp ngoại giao, vì theo Hiến chương LHQ và cơ chế của Tòa án công lý quốc tế (ICJ), thì 2 cơ quan của LHQ có quyền trưng cầu ý kiến pháp lý (legal opinion) của ICJ là HĐBA và Đại hội đồng LHQ, trong khi các nước thành viên không được lấy ý kiến trực tiếp.
“Có thể đề nghị HĐBA LHQ yêu cầu tham vấn pháp lý đối với ICJ về áp dụng và giải thích UNCLOS tại Biển Đông. Nếu có được một câu trả lời của ICJ thì nó có giá trị pháp lý mang tính toàn cầu, còn hơn cả Tòa trọng tài quốc tế (PCA), chỉ có ý nghĩa giữa 2 nước (bên khởi kiện và bên bị kiện)”, ông Giao nhận xét.