Tuesday, November 26, 2024
Trang chủSự thật Trung HoaNhững lần TQ lồng ghép “đường 9 đoạn” để tuyên truyền về...

Những lần TQ lồng ghép “đường 9 đoạn” để tuyên truyền về “chủ quyền” ở Biển Đông

Trung Quốc được cho là bậc thầy về “ăn không nói có” và thủ đoạn tinh vi trong việc lồng ghép, xuyên tạc nhận vơ “chủ quyền” ở Biển Đông. Một trong ví dụ điển hình là nước này đã cố tình lồng ghép bản đồ có in “đường 9 đoạn” vào các ấn phẩm, trò chơi, ứng dụng… để tuyên truyền cho cái gọi là “chủ quyền lịch sử” ở Biển Đông.

Hộ chiếu in “đường lưỡi bò”

Năm 2012, Trung Quốc phát hành hộ chiếu điện tử mới với hình ảnh “đường 9 đoạn” mập mờ và không có cơ sở pháp lý nhằm tìm cách tuyên truyền và củng cố yêu sách “chủ quyền” ở Biển Đông. Theo đó, hộ chiếu điện tử mới của Trung Quốc, trong đó có in chìm tấm bản đồ mà Trung Quốc cho là lãnh thổ của mình, đã bắt đầu được cấp phát hồi trung tuần tháng 5/2012. Trong bản đồ này, ngoài “đường lưỡi bò” (đường đứt khúc chín đoạn nêu lên yêu sách chủ quyền của Trung Quốc đối với hầu như toàn bộ khu vực Biển Đông), còn có đảo Đài Loan và hai khu vực ở Ấn Độ đang do New Dehli kiểm soát mà Trung Quốc cho là lãnh thổ của mình. Để tìm cách biện minh cho hành động vô lối của minh, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi cho rằng: “Hình ảnh trên hộ chiếu không nên bị diễn giải quá lên. Trung Quốc sẵn sàng duy trì liên lạc với các nước liên quan và thúc đẩy trao đổi hòa bình giữa nhân dân Trung Quốc và thế giới. Vấn đề về bản đồ trên hộ chiếu mới của Trung Quốc không nên bị săm soi. Mục đích của họ chiếu điện tử mới chỉ là tăng cường về tiện ích về công nghệ và giúp các công dân Trung Quốc thuận tiện hơn khi xuất nhập cảnh một quốc gia”.

Để đáp trả và đối phó với hành vi vô lối trên, Philippines đã đóng dấu lên visa trong hộ chiếu của các công dân Trung Quốc. Tuy nhiên, con dấu đóng lên hộ chiếu Trung Quốc sẽ có hình bản đồ của Philippines với toàn bộ vùng đặc quyền kinh tế của Philippines. Trong khi đó, công dân Trung Quốc mang hộ chiếu “đường lưỡi bò” sẽ không được cấp thị thực điện tử ở Việt Nam, tuy nhiên Việt Nam vẫn giải quyết cho những công dân Trung Quốc mang hộ chiếu trên nhập cảnh nhưng không đóng dấu vào hộ chiếu mà cấp thị thực rời để giữ mối quan hệ 2 nước.

Việc Trung Quốc cố tình in hộ chiếu có “đường 9 đoạn” cũng vấp phải sự chỉ trích lên án mạnh mẽ của người dân trong nước. Tờ South China Morning Post (Bưu điện Buổi sáng Hoa Nam) có trụ sở ở Hồng Kông đã có bài viết nhận định, việc Trung Quốc in hình bản đồ có “đường lưỡi” bò phi lý vào hộ chiếu phổ thông mới của nước này là hành động “ngu ngốc” và “đi quá xa”.Trong khi đó, việc người dân Trung Quốc gặp phiền toái khi sử dụng hộ chiếu điện tử in chìm bản đồ “đường lưỡi bò” trên Biển Đông đã trở thành tâm điểm tranh luận tại các diễn đàn trực tuyến ở nước này thời gian qua.

Du khách Trung Quốc mặc áo “đường 9 đoạn”

Một nhóm du khách Trung Quốc (13/5/2018) khi đến Việt Nam mặc áo in bản đồ “đường lưỡi bò”. Trước vụ việc trên, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Việt Nam Mai Tiến Dũng cho rằng đây là “những biểu hiện lợi dụng thông qua khách du lịch để tuyên truyền, quảng bá có ý đồ, có tổ chức, có sự chuẩn bị chứ không phải vô tình”. Tờ New Delhi Times (22/05/2018) cũng đã có bài viết về vụ du khách Trung Quốc mặc áo thun in hình lưỡi bò, nhắc lại rằng ít nhất đây là vụ thứ tư liên quan đến các du khách Trung Quốc trong vòng hai năm trở lại đây. Theo tờ báo Ấn Độ, những vụ này cho thấy Bắc Kinh đang dùng “quyền lực mềm” để nhắc Việt Nam về tranh chấp Biển Đông và mỗi lần như thế thì công luận Việt Nam lại phẫn nộ. Giáo sư Alan Chong, Trường Nghiên cứu Quốc tế S. Rajaratnam, Singapore, được New Delhi Times trích dẫn cũng có cùng nhận xét: Trong lịch sử, Trung Quốc vẫn khuyến khích công dân nước họ quảng bá chính sách đối ngoại khi đi ra nước ngoài, và đặc biệt là sửa chữa những cái nhìn “sai lệch” của thế giới về Trung Quốc. Mọi hình thức hoạt động của người dân ở bên ngoài đều có thể được hướng vào mục đích tuyên truyền. Cùng quan điểm trên, Tiến sĩ Nguyễn Thành Trung, Trưởng khoa Quan hệ Quốc tế, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn nhận định, “nếu nhìn vào bức tranh rộng hơn, chúng ta có thể thấy là chính quyền Trung Quốc sử dụng ngày càng nhiều thường dân để quảng bá đòi hỏi chủ quyền của họ trên Biển Đông, từ ngư dân quân cho đến các du khách”.

“Người tuyết bé nhỏ” cũng chỉ là phương tiện để Trung Quốc tuyên truyền

Mới đây nhất, thông tin về việc bộ phim “Everest: Người tuyết bé nhỏ” (tên tiếng Anh là Abominable) do DreamWorks Animation Studio (Mỹ) và Pearl Studio (Trung Quốc) đồng sản xuất có tới 2 đoạn và 4 cảnh phim xuất hiện hình ảnh “đường 9 đoạn” phi pháp của Trung Quốc ở Biển Đông khiến cộng đồng quốc tế phản ứng gay gắt. Đáng chú ý, Pearl Studio thuộc sở hữu của China Media Capital, một tập đoàn lớn của Trung Quốc được thành lập với mục tiêu gây dựng “đế chế truyền thông toàn cầu” để “quảng bá những giá trị Trung Quốc ra khắp thế giới”. China Media Capital từng nhận được khoản đầu tư lên tới 1,5 tỷ USD từ các tập đoàn lớn của Trung Quốc như Alibaba và Tecent để hiện thực hóa mục tiêu này. Hiện bộ phim trên đã bị cấm chiếu ở Việt Nam

Ngoài ra, Trung Quốc còn tích cực lợi dụng các ấn phẩm quảng cáo du lịch, sách giáo khoa, sách tham khảo, trò chơi trực tuyến, ứng dụng bản đồ, ứng dụng thời tiết… để lồng ghép bản đồ “đường 9 đoạn”. Sở Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh mới đây phát hiện một số ấn phẩm quảng cáo du lịch có in “đường 9 đoạn” tại Hội chợ Du lịch quốc tế. Chưa hết, những người dùng iPhone, iPad bằng tiếng Việt hoặc tiếng Trung, khi tra bản đồ thời tiết Weather.com được cài đặt sẵn trên thiết bị, sẽ nhìn thấy “đường lưỡi bò” 9 đoạn bao trùm toàn bộ Biển Đông. Không những vậy, bản đồ thời tiết của kênh The Weather Channel (TWC) của Mỹ cũng bị cài cắm “đường 9 đoạn”. Điều đáng chú ý là “đường 9 đoạn” này chỉ hiển thị trên phiên bản tiếng Việt, tiếng Indonesia, tiếng Nhật, tiếng Trung của bản đồ thời tiết, không hiển thị trên bản đồ tiếng Anh, Pháp hay tiếng Hindi. Cá biệt, nếu ta chọn phiên bản tiếng Trung từ vùng lãnh thổ Đài Loan, bản đồ TWC cũng không hiển thị “đường 9 đoạn” bao phủ Biển Đông. Bằng việc cắm “đường 9 đoạn” vào đây và chỉ thể hiện trên phiên bản của một số ngôn ngữ, rõ ràng Trung Quốc đã chọn lựa đối tượng tuyên truyền của mình – những quốc gia đang có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc hoặc những quốc gia đã bác bỏ yêu sách chủ quyền vô lý, phi pháp của nước này. Gần đây, cộng đồng mạng quốc tế cũng phát hiện hình ảnh “đường 9 đoạn” xuất hiện trên một đồ họa của kênh thể thao hàng đầu thế giới ESPN giới thiệu về lãnh thổ Trung Quốc trong chương trình SportCenter. Dù ESPN sau đó lên tiếng nhận lỗi và thanh minh rằng việc sử dụng đồ họa nói trên “là sai lầm vô ý” và ESPN sửa sai bằng “một tấm bản đồ hoàn toàn khác” không bao gồm “đường 9 đoạn”, giới quan sát cho rằng, điều này cho thấy “ảnh hưởng ngày càng gia tăng của Trung Quốc đối với các hãng truyền thông và giải trí lớn có tác động đến cộng đồng quốc tế để truyền bá thông điệp đầy sai trái của mình”. Trước đó, hồi năm 2016, Tập đoàn Google cũng bị phản ứng gay gắt khi cộng đồng mạng chia sẻ hình ảnh trang Google Maps thể hiện “đường 9 đoạn” trong phần bản đồ Trung Quốc và khu vực Biển Đông. Đáng chú ý, tấm bản đồ “đường 9 đoạn” này chỉ thể hiện trên trang Google Maps phiên bản Trung Quốc có đường dẫn maps.google.cn nhưng lại không xuất hiện ở phiên bản toàn cầu với đường dẫn maps.google.com. Dù sau đó Google “sửa sai” nhưng động thái này cũng gây tổn hại không nhỏ đến uy tín của một trong những tập đoàn công nghệ lớn nhất thế giới.

Nguồn gốc “đường 9 đoạn” của Trung Quốc

“Đường đứt khúc”, “đường chữ U” hoặc còn gọi bằng cái tên khác là “đường lưỡi bò” – đơn giản là nhìn trên bản đồ, nó giống hình lưỡi con bò liếm xuống Biển Đông. Nguồn gốc của “đường chữ U” ngày nay bắt nguồn từ những hoạt động của Ủy ban Điều tra Bản đồ Đất và Biển nước Trung Hoa dân quốc (ROC) thành lập năm 1933. Nhiệm vụ của Ủy ban này bao gồm việc khảo sát và đặt tên cho các đảo ở Biển Đông và xuất bản các bản đồ thể hiện các đảo này thuộc “lãnh thổ” của Trung Quốc. Bản đồ chính thức đầu tiên thể hiện “đường đứt đoạn” có nguồn gốc từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Bản đồ này được Vụ Biên giới và Lãnh thổ, Bộ Nội vụ ROC xuất bản tháng 12/1946. Trong bản đồ này, “đường chữ U” bao gồm 11 nét đứt bao trùm phần lớn Biển Đông và các đảo ở khu vực này. Bắt đầu từ đường biên giới Việt – Trung, hai nét đầu tiên đi qua Vịnh Bắc Bộ. Nét thứ 3 và thứ 4 lần lượt tách bờ biển Việt Nam ra khỏi hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nét thứ 5 và 6 đi qua Bãi James Shoal (4o Bắc), bãi ở cực Nam đường yêu sách của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (PRC) và Đài Loan. Đi theo hướng Nam – Đông, hai nét đứt tiếp theo một mặt nằm giữa Trường Sa và mặt khác giữa Borneo (Indonesia, Malaysia và Brunei) và Philippines (tỉnh Palawan). Nét thứ 9, 10,11 tách biệt Philippines với ROC. Sau khi đánh đuổi Quốc Dân đảng ra khỏi đại lục, Trung Quốc mới thành lập đã tiếp tục chính sách của các Chính phủ Trung Quốc trước đó, minh họa các nét đứt tương tự đã xuất hiện trên các bản đồ của ROC. Từ đó trở đi, cả Trung Quốc và Đài Loan đều bảo vệ “đường chữ U”. Tuy nhiên, từ năm 1953, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đã phê chuẩn việc bỏ 2 đoạn đứt khúc trong vịnh Bắc Bộ. Như vậy, bản đồ “đường lưỡi bò” do Trung Quốc xuất bản từ giai đoạn này chỉ còn có 9 đoạn; trong đó, có nhiều đoạn của đường yêu sách này được vẽ sát bờ biển Việt Nam, Indonesia, Malaysia, Philippines; trong đó, có đoạn chỉ cách bờ biển Việt Nam 50-100km… Đầu năm 2013, cơ quan Đo đạc bản đồ và Thông tin địa chất quốc gia Trung Quốc cho công bố bản đồ “đường lưỡi bò” gồm 10 đoạn và khẳng định lần đầu tiên Trung Quốc đã thể hiện rõ các đảo ở Biển Đông trên tấm bản đồ này, nhưng không hề giải thích lý do tại sao “đường lưỡi bò” từ 9 đoạn thành 10 đoạn.

“Đường 9 đoạn” không có cơ sở pháp lý, lịch sử

Công hàm ngày 7/5/2009 là văn bản đầu tiên, thể hiện quan điểm chính thức của Trung Quốc về yêu sách “đường 9 đoạn” và cũng là lần đầu tiên Trung Quốc chính thức công bố đường yêu sách này với các quốc gia thành viên Liên hợp quốc. Với công bố này, Trung Quốc yêu sách cộng đồng quốc tế phải thừa nhận tính chất “lịch sử của đường lưỡi bò”, coi Biển Đông như một “vịnh lịch sử” của Trung Quốc; “đường lưỡi bò” được hiểu như đường biên giới trên biển của Trung Quốc và như thế Trung Quốc sẽ độc chiếm 80% diện tích của Biển Đông và Biển Đông trở thành vùng nước “nội thủy” của Trung Quốc. Tuy nhiên, hành động của Trung Quốc đã bị Việt Nam và cộng đồng quốc tế bác bỏ, coi “đường lưỡi bò” mà Trung Quốc đã thể hiện trên sơ đồ là không có giá trị vì không có cơ sở pháp lý, lịch sử và thực tiễn.

Thứ nhất, không thể coi “đường lưỡi bò” là đường biên giới trên biển của Trung Quốc; bởi vì, theo nhiều án lệ quốc tế thì đặc tính quan trọng nhất của một đường biên giới quốc tế là sự ổn định và dứt khoát; trong khi đó, “đường lưỡi bò” lại không có tính ổn định và xác định… Đến nay, “đường lưỡi bò” vẫn chưa có tọa độ chính xác để có thể xác định một cách rõ ràng trên thực tế. Mặt khác, Trung Quốc đã phải tự bỏ đi 2 đoạn (từ 11 đoạn vào năm 1948, xuống còn 9 đoạn vào năm 1953), vì bản chất vô lý của nó. Một đường không có điểm cơ sở, không xác định cụ thể kinh độ, vĩ độ theo luật pháp quốc tế thì không thể gọi là đường biên giới quốc gia.

Thứ hai, càng không thể coi Biển Đông là “vịnh lịch sử của Trung Quốc”; bởi vì, theo Ủy ban Pháp luật quốc tế, một vịnh hay một vùng nước được coi là lịch sử phải thỏa mãn tối thiểu 3 điều kiện: (1) Quốc gia ven biển thực thi chủ quyền của mình đối với vùng nước được yêu sách. Trên thực tế, các văn kiện chính thức của nhà nước phong kiến Trung Quốc, như Đại Nguyên nhất thống chí (1294), Đại Minh nhất thống chí (1461), Đại Thanh nhất thống chí (1842) trước năm 1909 đều khẳng định “cực Nam của lãnh thổ Trung Quốc là Nhai huyện, đảo Hải Nam”. Các bản đồ lãnh thổ Trung Quốc của người Trung Quốc. Bản đồ lãnh thổ Trung Quốc của người nước ngoài cùng thời cũng vẽ và giải thích phù hợp với cách hiểu này của người Trung Quốc. Bản đồ Trung Quốc thế kỷ XVII của Peter de Goyer và Jacob de Keyzer thuộc Công ty Đông Ấn, Hà Lan cũng có lời giải thích rất rõ: “Nơi xa nhất của Trung Quốc bắt đầu từ phía Nam đảo Hải Nam ở 18 độ vĩ Bắc, rồi từ đó ngược lên phía bắc đến vĩ độ 42 độ”. Trung Quốc chỉ thực sự bước chân lên quần đảo Hoàng Sa năm 1909 khi quần đảo này đã thuộc Việt Nam, không còn là đất vô chủ. Về Trường Sa, cho tới tận năm 1932, Công hàm ngày 29 tháng 9 năm 1932 của Phái đoàn Ngoại giao Trung Hoa dân quốc tại Paris vẫn còn khẳng định các nhóm đảo “Amphitrite” (Lưỡi Liềm) và “Croissant” (An Vĩnh) của quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) “tạo thành phần lãnh thổ Trung Quốc nằm tận cùng ở phía Nam”. Trung Quốc đã không đưa ra được bằng chứng nào có sức thuyết phục về việc họ đã thực thi chủ quyền trên toàn bộ vùng biển rộng lớn này một cách liên tục, hòa bình từ thời xa xưa. Các sách Hán văn cổ đều ghi nhận các hoạt động của dân đánh cá và dân buôn Ả Rập, Ấn Độ, Ma-lay, Việt, và vùng Vịnh trong vùng biển này, không có một bằng chứng nào cho thấy Biển Đông hoàn toàn là “ao hồ Trung Quốc”. Các chính quyền phong kiến Trung Quốc cũng không thiết lập hoặc duy trì có lợi cho họ một sự độc tôn nào trong vùng biển này, khả dĩ có thể loại bỏ hoạt động khai thác của các Đội Hoàng Sa và Bắc Hải của triều Nguyễn. Ngược lại còn có những hành động thừa nhận tính hợp pháp của các hoạt động đó như trường hợp năm 1774: quan huyện Văn Xương giúp đội viên Đội Hoàng Sa khi đi làm nhiệm vụ bị bão dạt vào đất Trung Quốc. “Đường đứt khúc 9 đoạn” của Trung Quốc không phải là một con đường có tính ổn định và xác định. Từ 11 đoạn, nó đã phải bỏ đi hai đoạn trong Vịnh Bắc Bộ vì quá vô lý. Tính chất không liên tục của đường này được các tác giả Trung Quốc giải thích để cho “những điều chỉnh cần thiết trong tương lai”. Một con đường như vậy rõ ràng không thể nào lại được coi là “biên giới quốc gia” theo luật pháp quốc tế. Đặc tính quan trọng nhất của một đường biên giới quốc tế là tính ổn định và dứt khoát. Trong một xã hội có trật tự riêng, các đường biên giới là một trong số các thể chế ổn định nhất từ tất cả các thể chế. Vậy mà ở đây đến cả người Trung Quốc, tác giả của đường này, còn chưa biết nó đi thế nào, thì sao có thể gọi đó là biên giới quốc gia được? (2) Sự liên tục của việc thực thi quyền lực đó theo thời gian; (3) Quan điểm của các quốc gia khác đối với yêu sách đó. Ngoài ra, một quốc gia yêu sách danh nghĩa lịch sử phải có trách nhiệm đưa ra bằng chứng đối với các vùng nước có vấn đề đang tranh cãi này. Cả trên phương diện pháp lý, lịch sử và thực tiễn, Trung Quốc đã không đưa ra được bằng chứng nào có sức thuyết phục về việc họ đã thực thi chủ quyền trên toàn bộ vùng biển rộng lớn này một cách thực sự, liên tục, hòa bình… Các chính quyền Trung Quốc cũng không thiết lập hoặc duy trì sự quản lý độc tôn nào trong vùng biển này. Mặc dù trước đó, đường yêu sách này đã được thể hiện nhiều lần trên bản đồ Trung Quốc, nhưng Cộng hòa nhân dân Trung Hoa chưa bao giờ có một tuyên bố chính thức nào về “đường lưỡi bò” của mình; thậm chí, trong những văn bản pháp lý quan trọng của Trung Quốc về các vùng biển (Tuyên bố về Lãnh hải 1958, Luật về Lãnh hải và vùng tiếp giáp 1992, Tuyên bố về đường cơ sở 1996; về vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 1998) đều không hề nhắc đến đường yêu sách này. Có thể khẳng định, từ khi xuất bản bản đồ thể hiện “đường lưỡi bò” trên Biển Đông cho đến trước ngày 7/5/2009 thì cả chính quyền Trung Hoa dân quốc cũng như Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đều chưa bao giờ chính thức yêu sách hay có lời giải thích gì về “đường lưỡi bò”. Vì vậy, các quốc gia khác đã không lên tiếng phản đối vấn đề này là lẽ đương nhiên. Sự im lặng này không được coi là “mặc nhiên thừa nhận”. Mặt khác, năm 1951, tại Hội nghị San Francisco, các nước tham dự đã bác đề nghị của Liên Xô (cũ) về việc trao trả cho Trung Quốc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa… Thực tế, tranh chấp về chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và đòi hỏi của các nước khác trong vùng đối với một bộ phận của quần đảo Trường Sa đã chứng minh đường yêu sách của Trung Quốc chưa bao giờ có được sự thừa nhận của cộng đồng quốc tế. Vì vậy, về mặt lịch sử, Trung Quốc không thể khẳng định yêu sách “đường lưỡi bò” do chính họ tự vẽ ra từ năm 1947, với lý do không có ai phản đối.

Thứ ba, Trung Quốc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa năm 1974. Từ lâu, quần đảo này đã thuộc chủ quyền của Việt Nam, không phải là lãnh thổ vô chủ. Hơn nữa, trong Công hàm ngày 29/9/1932 của phái đoàn ngoại giao Trung Hoa dân quốc tại Pa-ri khẳng định các nhóm đảo Lưỡi Liềm, An Vĩnh của quần đảo Tây Sa (tức Hoàng Sa) “tạo thành lãnh thổ Trung Quốc nằm tận cùng ở phía Nam”. Như vậy, quần đảo Trường Sa chưa hề xuất hiện trên bản đồ chủ quyền của Trung Quốc. Lịch sử đã ghi nhận, các quốc gia trong khu vực vẫn tiến hành mọi hoạt động trên Biển Đông, như: Hàng hải, dầu khí, nghề cá… một cách bình thường mà không hề gặp phải sự ngăn cản nào của Trung Quốc. Vì vậy, Trung Quốc không thể nói mình đã thực hiện chủ quyền thực sự một cách liên tục và hoà bình đối với Biển Đông từ năm 1947. “Đường lưỡi bò” được Trung Quốc thể hiện trên sơ đồ đính kèm Công hàm ngày 7/5/2009 cũng không thể mang lại cho Trung Quốc quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng biển nằm phía trong đường này theo quy chế vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa theo Công ước Luật Biển 1982; bởi vì, bản chất tiến bộ của Công ước Luật Biển 1982 đã công nhận và mở rộng quyền chủ quyền của các quốc gia ven biển trong việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên gắn với lãnh thổ của mình; trong khi đó, “đường lưỡi bò” cách xa lục địa Trung Quốc hàng ngàn km… Rõ ràng, yêu sách của Trung Quốc không phù hợp các quy định của Công ước Luật Biển 1982. Theo luật pháp quốc tế, “đường yêu sách do Trung Quốc tự vẽ dựa theo bản đồ của một cá nhân là hoàn toàn không có cơ sở khoa học, không có giá trị pháp lý quốc tế và không ai có thể chấp nhận được và nội dung công hàm của phía Trung Quốc và bản đồ kèm theo công hàm đó đã vi phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán hợp pháp của Việt Nam ở Biển Đông”.

Thứ tư, trong phán quyết của Toà Trọng tài thành lập theo Phụ lục VII, Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển trong vụ kiện giữa Cộng hoà Philippines và Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, Tòa đã tuyên bố Trung Quốc không có cơ sở pháp lý để đòi quyền lịch sử với các nguồn tài nguyên bên trong “đường lưỡi bò”. Tòa Trọng tài cho rằng trong phạm vi quyền lịch sử của Trung Quốc đối với các nguồn tài nguyên trong các vùng biển ở Biển Đông, quyền này bị xóa bỏ do chúng không phù hợp với chế định vùng đặc quyền kinh tế trong UNCLOS. Toà cũng nhận thấy dù trong lịch sử, những người đi biển cũng như ngư dân từ Trung Quốc cũng như từ các nước khác đã sử dụng các đảo tại Biển Đông nhưng không có bất kỳ bằng chứng nào cho thấy về mặt lịch sử Trung Quốc đã chỉ một mình thực hiện việc kiểm soát vùng nước này cũng như tài nguyên tại đây. Vì vậy, Toà kết luận không có cơ sở pháp lý để Trung Quốc yêu sách quyền lịch sử đối với tài nguyên tại các vùng biển phía bên trong “đường 9 đoạn”. Theo Tòa Trọng tài, Trung Quốc đã gây ra những thiệt hại không thể khắc phục đối với hệ san hô ở quần đảo Trường Sa. Tòa khẳng định các tàu hành pháp Trung Quốc tạo ra nguy cơ xảy ra va chạm cao khi tiếp cận tàu Philippines. Phán quyết còn cho rằng Trung Quốc đã cản trở các quyền của ngư dân Philippines tại bãi cạn Scarborough bằng cách ngăn họ tiếp cận khu vực này. Ngoài ra, việc Trung Quốc cải tạo đất, xây dựng các đảo nhân tạo là không phù hợp với nghĩa vụ của một quốc gia trong quá trình giải quyết tranh chấp.

Từ góc độ luật pháp quốc tế cũng như tình hình thực tế các hoạt động thực thi chủ quyền của các nước trên khu vực Biển Đông từ trước đến nay cho thấy, yêu sách “đường lưỡi bò” của Trung Quốc là một yêu sách không có giá trị pháp lý quốc tế, không được các nước, và các học giả trên thế giới công nhận. Thậm chí yêu sách này còn bị chỉ trích mạnh mẽ vì tính phi lý và hão huyền của nó. Ngay sau khi Trung Quốc gửi công hàm phản đối Việt Nam và Malaysia, ngày 08/5/2009, Phái đoàn Thường trực Việt Nam tại Liên hợp quốc đã có Công hàm số 86/HC-2009 gửi Tổng Thư ký Liên hợp quốc bác bỏ công hàm và sở đồ nói trên. Cùng ngày, Người phát ngôn Bộ ngoại giao Việt Nam cũng đã trả lời phỏng vấn khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và coi yêu sách “đường lưỡi bò” của Trung Quốc thể hiện trên sơ đồ là “không có giá trị vì không có cơ sở pháp lý, lịch sử và thực tiễn”.

RELATED ARTICLES

Tin mới