Monday, November 25, 2024
Trang chủSự thật Trung HoaTQ nhằm vào Campuchia trong ý đồ xây dựng căn cứ quân...

TQ nhằm vào Campuchia trong ý đồ xây dựng căn cứ quân sự ở nước ngoài

Đúng một năm trước, tức là vào tháng 11/2018, đã xuất hiện những đồn đoán về việc Trung Quốc có kế hoạch “quân sự hóa” một số dự án cảng, sân bay do Bắc Kinh tài trợ ở Campuchia. Ngay sau đó, Phó Tổng thống Mỹ Mike Pence đã gửi thư cho Thủ tướng Campuchia Hun Xen, yêu cầu giải thích về ý định của Trung Quốc đối với căn cứ hải quân Ream, nơi Mỹ đã hoàn tất tài trợ xây dựng một số cơ sở hạ tầng. Đến tháng 6/2019, có thông tin cho rằng, Phnom Penh đã rút lại sự chấp thuận đối với đề nghị của Mỹ về việc sửa sang các tòa nhà tại căn cứ này. Và đến ngày 22/07/2019, tờ Wall Street Journal (Mỹ) và Financial Times (Anh) đã “đổ thêm dầu vào lửa” khi đăng tải các bài viết có trích dẫn nguồn tin ẩn danh ở Mỹ hoặc có liên quan đến Mỹ, nói rằng Trung Quốc và Campuchia đã ký kết một thỏa thuận bí mật cho phép tàu chiến Trung Quốc được độc quyền ra vào căn cứ nằm cạnh cảng Sihanoukville do Trung Quốc điều hành. Cạnh đó, đất đai và rừng cũng đang được bạt phá đi để dành mặt bằng cho xây dựng một cảng nước sâu và một sân bay do Trung Quốc tài trợ, nhưng bên ngoài lại được quảng bá là để phục vụ cho một khu đầu tư và nghỉ dưỡng bờ biển bỏ không do Trung Quốc xây dựng. Điều kỳ lạ là sân bay này có đường băng dài tới 3.600m, dài hơn rất nhiều so với nhu cầu cất, hạ cánh của máy bay thương mại.

Ngay lập tức, cả Trung Quốc và Campuchia đã đồng thanh lên tiếng phủ nhận thỏa thuận bí mật trên. Nhưng bất luận đúng, sai ra sao, giới quan sát có lý do hợp lý để khẳng định Trung Quốc muốn có những cơ sở này, biến chúng thành những căn cứ quân sự đầu tiên của họ ở khu vực Đông Nam Á. Bởi thực tế trong nhiều năm qua cho thấy, Bắc Kinh đã tìm cách lôi kéo Campuchia tiến sâu hơn vào quỹ đạo chiến lược của họ và thành công của Trung Quốc đối với Campuchia cho phép nước này có thể “khuyếch trương” cách tiếp cận của mình để tiếp tục thu hút bạn bè và đồng minh ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, phục vụ cho chiến lược lớn “phục hưng vĩ đại dân tộc Trung Hoa”. Nhưng nó cũng cho thấy thế “tiến thoái lưỡng nan” của Trung Quốc trong việc mở rộng sự hiện diện quân sự ở nước ngoài.

Có hai câu hỏi mà giới quan sát quan tâm đặt ra là: (1) Tại sao Trung Quốc lại “thèm muốn” Campuchia? (2) Campuchia sẽ nhận được lợi ích gì khi cho phép Trung Quốc xây dựng căn cứ trên? Để làm rõ hai câu hỏi này, trước hết cần điểm qua một số bước đi “khéo léo” mà Trung Quốc đã làm để theo đuổi mục tiêu xây dựng các căn cứ ở nước ngoài.

Theo tính toán của Trung Quốc, để bảo đảm các tuyến đường biển huyết mạch phục vụ cho sự “trỗi dậy” của mình và thiết lập trật tự lấy Trung Quốc làm trung tâm ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương, Bắc Kinh cần phải kiểm soát được các nút thắt dọc theo chuỗi đảo thứ nhất ở Tây Thái Bình Dương, Đông Ấn Độ Dương và sẵn sàng đối phó với các mối đe dọa ở lưu vực Ấn Độ Dương và Tây Thái Bình Dương. Để làm được điều đó, Trung Quốc cần có lực lượng hải quân và không quân hoạt động tầm xa, cùng với các khả năng triển khai sức mạnh tên lửa. Cùng với đó, Trung Quốc buộc phải có một mạng lưới các căn cứ để phục vụ tàu chiến, triển khai máy bay chiến đấu và tên lửa, dự trữ quân nhu và vũ khí đạn dược… Bởi dẫu cho có lớn mạnh và thiện nghệ đến đâu, Quân đội Trung Quốc cũng chỉ có thể phòng vệ bờ biển, không thể vươn xa hơn nữa ra bên ngoài lãnh thổ nếu thiếu một mạng lưới các căn cứ như vậy.

Nhiều năm nay, Trung Quốc đã phải “vật lộn” để xây dựng các căn cứ theo cách thức đã lỗi thời mà mãi không thành, tức là tìm cách thuyết phục những nước đồng minh chiến lược có lợi ích khi trao cho Trung Quốc chìa khóa để đạt được mục đích. Nhưng phải thấy rằng, mạng lưới các căn cứ quân sự rộng lớn của Mỹ ở nước ngoài sẵn sàng tạo điều kiện cho các hoạt động triển khai quân sự của Mỹ, cũng như các cơ sở hỗ trợ hậu cần khác đều chỉ được hình thành khi Mỹ đã trở thành siêu cường và với nhiều nước, đó là chỗ dựa lớn nhất của họ để tránh xa các mối đe dọa từ bên ngoài, chẳng hạn như chủ nghĩa khủng bố. Thực tế, các căn cứ quan trọng nhất của Mỹ đều được thiết lập tại những nước mà Mỹ đã chinh phục. Còn Trung Quốc chưa phải là cường quốc bá chủ khu vực, chưa khuất phục được ai và gần như không có nước nào ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương xem Mỹ và các đồng minh là mối đe dọa lớn đến mức buộc họ phải “bán mình” cho Trung Quốc. Bắc Kinh vì thế đã phải tìm cách tận dụng lợi thế “lắm tiền, nhiều của” để “móc túi” tung ra các khoản viện trợ và đầu tư hào phóng vào những nước có tầm quan trọng chiến lược nhằm tạo ra sự lệ thuộc về kinh tế và chính trị, tài trợ cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng lưỡng dụng và sau đó thúc ép chính quyền sở tại phải làm theo các yêu cầu chiến lược của Bắc Kinh. Đây là một trong nhiều động cơ ẩn sau một số dự án trong khuôn khổ sáng kiến “Vành đai và con đường” (BRI). Tuy nhiên cho đến nay, thành công họ “gặt hái” được chỉ như “đếm trên đầu ngón tay”. Nhiều nước trong khu vực có vẻ hào hứng nhận tiền từ Trung Quốc nếu như chúng được bày sẵn. Số này thậm chí còn không lên tiếng chỉ trích Trung Quốc và hoặc là tảng lờ, hoặc là giảm nhẹ các tranh chấp song phương trên biển để bảo đảm rằng “hầu bao” của Bắc Kinh vẫn mở. Nhưng những nước trên cũng không thể “nhắm mắt làm ngơ” trước các nguy cơ tiềm ẩn về chính trị, ngoại giao và chiến lược từ việc hoan nghênh sự có mặt của Quân đội Trung Quốc trên đất nước mình. Do đó, ưu thế mà Trung Quốc có được từ chính sách “ngoại giao nhân dân tệ” vẫn không đủ độ giúp họ vượt qua những e ngại này.

Phương án tốt nhất đối với Trung Quốc chính là các nước có “lợi ích cốt lõi” tìm đến Trung Quốc trong việc lợi dụng họ để đối trọng với một thế lực đối địch mạnh hơn ở bên ngoài, hoặc những nền kinh tế có nhu cầu khẩn thiết về đầu tư cơ sở hạ tầng và có rất ít lựa chọn để đạt được mục tiêu này; hoặc một cấu trúc quyền lực được xây dựng xoay quanh các mạng lưới bảo trợ ngầm. Dường như Pakistan và Triều Tiên là hai đồng minh thân thiết nhất của Trung Quốc, rất phù hợp với điều kiện thứ nhất, còn Campuchia lại phù hợp với điều kiện thứ hai.

Trở lại hai câu hỏi khiến giới quan sát quan tâm. Xin thưa:

Về câu hỏi thứ nhất.

Trong cuộc cạnh tranh ngày một gia tăng để có được các đối tác trung thành ở Đông Nam Á của Trung Quốc, Campuchia thường bị bỏ qua. Lý do là Campuchia không phải là một bên tranh chấp ở Biển Đông và cũng không có vai trò gì đối với một cường quốc bên ngoài đang tìm cách phong tỏa giao thương đường biển của Trung Quốc; không mấy quan trọng đối với các dự án giao thông vận tải của BRI vốn để mở rộng khả năng Trung Quốc tiếp cận thương mại tới khu vực Ấn Độ Dương và giảm sự phụ thuộc của Trung Quốc vào eo biển Malacca và các yết hầu hàng hải khác trong khu vực. Tuy nhiên, vị trí địa lý của Campuchia lại có giá trị chiến lược nhất định đối với Bắc Kinh. Nghĩa là, nếu có các căn cứ quân sự tại Campuchia, sẽ giúp Trung Quốc mở rộng đáng kể tầm hoạt động của máy bay chiến đấu, tên lửa chống hạm cũng như tăng cường được công tác do thám, giám sát và tình báo, từ đó giúp cho Bắc Kinh kiểm soát tình hình phía Nam Biển Đông chắc chắn hơn, kể cả tình hình tại eo biển Malacca. Những căn cứ có được ở Campuchia cũng cho phép các lực lượng trên biển của Trung Quốc, không chỉ hải quân, mà cả lực lượng bán quân sự như cảnh sát biển và dân quân biển, duy trì sự hiện diện dày đặc hơn xung quanh rìa phía nam của “đường chín đoạn”. Vô hình dung cũng tạo điều kiện cho Trung Quốc gia tăng sức ép đối với Thailand, một đồng minh dễ chao đảo của Mỹ; giúp Trung Quốc tiến gần hơn vùng biển giàu dầu mỏ ngoài khơi phía Đông Nam Việt Nam, vùng biển có giá trị kinh tế bậc nhất đối với nước này và đây cũng là nơi Trung Quốc đang tìm cách để kiểm soát. Những gì xảy ra quanh các giàn khoan ở vùng biển của Việt Nam và Malaysia từ tháng 7/2019 đến nay cho thấy, Trung Quốc thường tìm cách áp đặt quyền kiểm soát đối với các vùng lãnh thổ bị tranh chấp bằng cách quấy rối các hoạt động thương mại với các tàu dân sự. Vì thế, dù Campuchia có được coi là “thánh địa” của các tàu chiến Trung Quốc hay không, thì việc nước này mở cửa các cảng để tiếp nhận tàu đánh cá và tàu thương mại, cũng như các lực lượng bán quân sự của Trung Quốc sẽ là yếu tố có giá trị xét trên khía cạnh này.

Đối với Campuchia, sự hiện diện của Trung Quốc không chỉ giúp nước này tăng cường khả năng an ninh hàng hải, mà còn có thể gây sức ép, buộc Thailand phải đàm phán về việc khai thác năng lượng chung ở vùng biển có tranh chấp trên vịnh Thailand, một vấn đề mà Bangkok từ trước đến nay luôn tìm cách né tránh, còn Campuchia không có ưu thế nào để thúc ép hợp tác.

Về câu hỏi thứ hai.

Có thể cho rằng, các lợi ích đối với Phnom Penh trong quan hệ với Trung Quốc chủ yếu là về chính trị. Những năm tháng của thế kỷ XX không có gì là tốt đẹp và đáng nhớ với Campuchia. Sau khi người Pháp phải chấm dứt chế độ “thực dân hóa” trên toàn cõi Đông Dương, đến lượt người Mỹ lại ném bom ồ ạt đường mòn Hồ Chí Minh, góp phần cho lực lượng Khmer Cộng sản, còn được gọi là Khmer Đỏ, mở rộng ảnh hưởng và tiến tới “làm chủ” ở Campuchia những năm 1970 – 1980. Và rồi nạn diệt chủng và chiến tranh kéo dài cho đến những năm 1990 đã xóa sổ 20% dân số Campuchia, phá hủy các thiết chế và xã hội dân sự ở nước này, làm tê liệt nền kinh tế Campuchia, trong khi các nước láng giềng xung quanh bắt đầu hưởng lợi từ sự bùng nổ sản xuất thời hậu Chiến tranh Lạnh tại khu vực.

Sau khi thoát khỏi nạn diệt chủng của Khmer Đỏ, đất nước Campuchia dưới sự “chèo lái” của Thủ tướng Hun Xen đã trải qua những vật lộn đầy khó khăn trên con đường tìm kiếm sự ổn định. Những năm đầu thế kỷ XXI, nền kinh tế Campuchia phụ thuộc vào viện trợ và thị trường hàng dệt may phương Tây. Điều này trở thành “cây gậy” để phương Tây “chọc ngoáy” vào nội bộ Campuchia trong việc hướng đất nước này đi theo con đường Tư bản. Tuy nhiên, chính nó lại tạo điều kiện cho Trung Quốc nhanh tay “chống lưng” cho chính quyền Hun Xen bằng các khoản viện trợ về tài chính và quân sự. Đến nay, Trung Quốc là nước viện trợ lớn nhất, nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất của Campuchia, trong khi một nửa số nợ nước ngoài của Campuchia là từ Trung Quốc. Mới đây, ngày 29/07/2019, Thủ tướng Hun Sen còn tuyên bố mua mới hàng chục nghìn đơn vị vũ khí từ Trung Quốc, trị giá hơn 40 triệu USD. Giới quan sát cả trong và ngoài khu vực đều phải thừa nhận rằng, Campuchia đã “tuột khỏi tầm tay” của phương Tây và họ đang ngày càng ngả theo Trung Quốc. Thậm chí năm 2017, Phnom Penh đã từ chối chương trình viện trợ quân sự của Mỹ và hủy các cuộc tập trận thường niên với Mỹ, nhưng lại tăng cường quy mô tập trận với Trung Quốc.

Công bằng mà nói, Campuchia vẫn có lợi ích trong việc duy trì cân bằng quan hệ nước lớn và khai thác sự cạnh tranh của Trung Quốc để tranh thủ vốn đầu tư từ các đối thủ của Bắc Kinh. Nhưng chết nỗi, ngoài nguồn nhân lực giá rẻ, Campuchia hầu như không có tiềm năng gì để lôi kéo các công ty của Mỹ và đồng minh bỏ vốn vào đầu tư. Với bản chất thực dụng, các công ty này không muốn “vung tiền” vào những dự án quan trọng về chính trị nhưng không sinh lời mà Campuchia đang thúc đẩy. Chỉ có Trung Quốc là sẵn sàng và đủ thực lực để theo đuổi trò chơi này. Do đó, sức hút chính trị và nhất là thực lực tài chính của Trung Quốc đã kéo Campuchia tiếp tục hợp tác với Bắc Kinh và bỏ qua việc cân bằng chiến lược. Vì thế, cho dù Quốc hội Mỹ mới thông qua một dự luật về việc áp đặt hạn chế thị thực và phong tỏa tài sản đối với giới chức cầm quyền Campuchia cũng sẽ không tạo ra thay đổi đáng kể nào đối với xu hướng Campuchia ngả sang Trung Quốc.

Song, việc Campuchia và Trung Quốc vội vã lên tiếng phủ nhận câu chuyện về thỏa thuận bí mật liên quan đến căn cứ quân sự Ream cũng cho thấy điểm yếu cơ bản trong quan hệ của hai đối tác này, cũng như chiến lược của Trung Quốc về mở rộng quân sự. Các thỏa thuận về lập căn cứ quân sự ở nước ngoài thường là chủ đề rất nhạy cảm về chính trị đối với bất kỳ nước nào, đòi hỏi việc đàm phán phải khéo léo và một chiến lược quan hệ công chúng được xử lý cực kỳ thận trọng. Nhưng thật sự là không bình thường nếu một nước liên tục phải bào chữa cho sự dính líu của mình trong những dự án cơ sở hạ tầng ở nước ngoài có vẻ như phục vụ cho mục đích thương mại, nhưng lại không đủ “dũng khí” để thừa nhận thứ mà mình muốn cũng chính là những gì mà bất kỳ một cường quốc quân sự mới nổi nào mong mỏi. Đơn cử như, rất lâu sau khi mở căn cứ quân sự đầu tiên ở nước ngoài tại Djibouti, Trung Quốc vẫn tiếp tục khẳng định rằng, đây không phải là một căn cứ quân sự.

Sâu xa hơn, vấn đề nằm ở chỗ các nước láng giềng trong khu vực sẽ phải gia tăng cảnh giác trước những bước đi và tính toán chiến lược của Trung Quốc. Bắc Kinh cần các dự án BRI vì những lý do kinh tế, chính trị của riêng mình. Nước này cũng cần triển khai sức mạnh quân sự ra bên ngoài để tái lập trật tự khu vực theo ý mình. Các dự án BRI vì thế tiềm ẩn đầy nguy cơ chính trị ở các nước tiếp nhận, khiến Bắc Kinh liên tục lâm vào thế lúng túng khi cố gắng ngấm ngầm xây dựng các dự án quy mô lớn, có khả năng lưỡng dụng không thể che giấu và ít có khả năng sinh lợi, gây nghi ngờ về mục đích của Bắc Kinh và những công cụ cưỡng ép mà Trung Quốc sử dụng để đạt được mục tiêu. Việc công khai bác bỏ toan tính quân sự không giúp gì được cho việc che giấu các tham vọng chiến lược mà nó sẽ chỉ khiến Trung Quốc bị “lòi đuôi”. Cái sự “lòi đuôi” đó dẫn đến phản ứng ngược là không những không đẩy được Mỹ rời khỏi khu vực mà còn kéo thêm các nước lớn khác “xúm” vào. Giới quan sát có nhận xét rằng: Với túi tiền rủng rỉnh, chắc vẫn đủ để Trung Quốc giành được Campuchia, nhưng không thể đủ để giành lấy Tây Thái Bình Dương.

RELATED ARTICLES

Tin mới