Friday, October 18, 2024
Trang chủSự thật Trung HoaTàu ngầm TQ: Con bài chiến lược thực hiện âm mưu độc...

Tàu ngầm TQ: Con bài chiến lược thực hiện âm mưu độc chiếm Biển Đông

Trong những năm gần đây, Trung Quốc đặc biệt chú trọng đầu tư, phát triển lực lượng tàu ngầm chiến lược nhằm chiếm ưu thế và giành quyền kiểm soát dưới đáy biển.

Trung Quốc trang bị thêm tàu ngầm hạt nhân cho hải quân

Theo số liệu thống kê không chính thức, Trung Quốc hiện đứng thứ ba trên thế giới về số lượng tàu ngầm với 69 tàu, trong đó có 5 tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đạn đạo và khoảng 64 tàu diesel-điện. Số tàu ngầm hạt nhân của Trung Quốc tuy không được thiết kế và tính năng ưu việt như tàu ngầm Nga hoặc Mỹ, nhưng tàu ngầm tên lửa đạn đạo chiến lược của Trung Quốc vẫn có thể bắn những tên lửa hạt nhân tầm xa. Các tàu ngầm hạt nhân của Trung Quốc mang 12 tên lửa đạn đạo chiến lược, chiếm 1,1% số tên lửa này của Trung Quốc. Các tàu ngầm khác mang 146 tên lửa chống hạm (chiếm 9,9%), 1.182 ngư lôi (chiếm 82,4%) và 2.608 thủy lôi (31,5%).

Hiên nay, nổi bật nhất trong các tàu ngầm hạt nhân của Trung Quốc là tàu ngầm Type 094, đây là tàu ngầm lớp Tấn có chiều dài 135 m, lượng choán nước 11.000 tấn khi lặn. Hiện Trung Quốc có 5 tàu lớp Type 094 được đưa vào hoạt động, 3 chiếc khác đang trong kế hoạch triển khai. Mỗi tàu Type 094 mang theo 12 tên lửa đạn đạo JL-12 với tầm bắn 7.500-8.000 km, điều này có nghĩa là Type 094 có thể tấn công nhiều địa điểm trên đại lục nước Mỹ từ căn cứ Ngọc Lâm trên đảo Hải Nam. Mặc dù tàu lớp Tấn khá đáng sợ, nhưng chúng vẫn bị xem là kém tương đối xa về độ hiện đại và tinh vi nếu so với các tàu ngầm tương tự của Nga (tàu lớp Borei, mang 16 tên lửa đạn đạo) hay tàu lớp Ohio của Mỹ (24 tên lửa đạn đạo). Năng lực tàng hình, hệ thống định vị thủy âm và nhiều tính năng khác cũng không thể so được với tàu Nga, Mỹ.

Theo đánh giá của Nga và phương Tây, thế hệ tàu ngầm tên lửa đạn đạo kế tiếp của Trung Quốc, tàu Type 096 Đường, có thể sẽ được khởi đóng trong giai đoạn đầu thập niên 2020, nhiều khả năng sẽ được trang bị tên lửa JL-3, tầm bắn khoảng 9.000 km. Type 096 được Trung Quốc kỳ vọng có năng lực khả dĩ cạnh tranh được với các tàu ngầm tiên tiến nhất của Nga và Mỹ. Tàu mới được nói là có thể mang 24 tên lửa đạn đạo JL-3, dựa trên phiên bản tên lửa đạn đạo trên bộ DF-41.

Đáng chú ý, trong báo cáo mới nhất của Lầu Năm Góc công bố về quá trình hiện đại hóa Quân đội Trung Quốc, hải quân nước này đã đưa thêm vào biên chế 2 tàu ngầm hạt nhân chiến lược (SSBN) Type-094, lớp “Tấn”, nâng tổng số tàu ngầm chiến lược trang bị trong hạm đội hải quân nước này lên 6 chiếc. Hải quân Trung Quốc cũng được cho là đang thực hiện các bước đi nhằm triển khai hệ thống chỉ huy và kiểm soát nhằm bảo vệ cho lực lượng hạt nhân chiến lược, bao gồm các loại tên lửa đạn đạo liên lục địa ở trên bộ và tăng cường các cuộc tuần tra trên biển bằng tàu ngầm. Bắc Kinh chuẩn bị đưa chiếc tàu khu trục Type-055 đầu tiên vào hoạt động, cùng với ít nhất 7 con tàu khác đang được đóng mới tại các nhà máy đóng tàu ven biển nước này. Việc đóng mới tàu khu trục Type-055 được coi như một phần trong nỗ lực nhằm nâng cấp “khả năng phòng không, chống hạm, chống tàu ngầm” của lực lượng Hải quân Trung Quốc.

Tương quan sức mạnh tàu ngầm Trung Quốc

So với Nga, truyền thông Trung Quốc đánh giá, Nga sở hữu lực lượng tàu ngầm mạnh mẽ, đứng thứ 2 thế giới, nhưng Trung Quốc đang vượt qua Nga cả về chất lượng và số lượng. Theo Sohu, trong những năm gần đây, sức mạnh tàu mặt nước của Hải quân Nga đã giảm dần. Ở thời kỳ Chiến tranh Lạnh, sức mạnh tàu mặt nước cua Liên Xô là mối quan ngại đối với toàn thế giới khi sở hữu nhiều tàu tuần dương tên lửa mạnh mẽ và hàng chục tàu khu trục tên lửa dẫn đường. Tuy nhiên, trong nhiều thập kỷ qua, do vấn đề kinh phí, Nga đã không trang bị tàu chiến mặt nước quy mô lớn, nhiều tàu đã bị loại khỏi biên chế vì không có kinh phí bảo dưỡng, đến nay, sức mạnh của tàu mặt nước Nga đã nhanh chóng suy giảm. Đặc biệt trong những ngày gần đây, tàu sân bay Đô đốc Kuznetsov duy nhất còn hoạt động của Hải quân Nga cũng đã tiến hành “niêm phong cất vào kho”, Hải quân Nga chỉ có thể dựa vào một số tàu 1.000 tấn mới đưa vào phục vụ để “miễn cưỡng” duy trì sức mạnh trên mặt nước. Đối với lực lượng tàu ngầm, theo nhiều đánh giá, Nga đang sở hữu lưc lượng tàu ngầm hạt nhân mạnh mẽ, chiếm vị trí số 2 thế giới. Hải quân Nga hiện có tổng cộng 37 tàu ngầm hạt nhân, trong đó có 12 tàu ngầm hạt nhân tên lửa chiến lược và 25 tàu ngầm hạt nhân tấn công. Về số lượng, số lượng tàu ngầm hạt nhân của hải quân Nga chỉ đứng sau Hải quân Mỹ. 12 tàu ngầm hạt nhân tên lửa chiến lược của Hải quân Nga được bảo trì tương đối tốt. Hiện tại, 9 tàu đang thực hiện nhiệm vụ và 3 tàu đang được bảo trì. 9 tàu ngầm hạt nhân tên lửa chiến lược này là nền tảng của Hải quân Nga và là lực lượng chính trong các cuộc tấn công chiến lược. Ngược lại, tàu ngầm hạt nhân tấn công của Hải quân Nga không tốt như những thông tin công khai. 25 tàu ngầm hạt nhân tấn công đang phục vụ được chia thành hai loại, một là tàu ngầm hạt nhân tấn công thực hiện nhiệm vụ tấn công tàu và loại còn lại là tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa hành trình thực hiện nhiệm vụ tấn công tầm xa. Theo đó, 25 tàu ngầm hạt nhân được chia thành nhiều lớp: Yasen, Oscar, Akula, Serra II và Victor III. Trong số đó, tàu ngầm hạt nhân lớp Akula là tàu ngầm lớn nhất, nhưng 10 tàu ngầm hạt nhân loại tấn công Akula, một chiếc cho Hải quân Ấn Độ thuê, 9 chiếc còn lại chỉ có 2 chiếc có khả năng thực hiện nhiệm vụ, các tàu khác đang chờ để nâng cấp lên tiêu chuẩn 971M, nhưng do thiếu kinh phí, tiến độ nâng cấp chậm. 8 tàu ngầm tấn công lớp Oscar tương đối tốt hơn, với 6 tàu đang trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu, 2 chiếc còn lại đang được nâng cấp lên tiêu chuẩn 949AM. Lớp Oscar cũng là tàu ngầm hạt nhân có tốc độ phóng cao nhất và có khả năng mang tên lửa hành trình tầm xa Kabir. Hải quân Nga có kế hoạch nâng cấp 4 tàu này. Hai tàu lớp Sierra vẫn đang được sử dụng, 4 tàu lớp Victor thì có 2 tàu đang được bảo trì. Tàu ngầm hạt nhân đa năng lớp Yasen mới nhất và tiên tiến nhất thì chỉ có 1 chiếc đang hoạt động.

Trong khi đó, Mỹ có 4 loại tàu ngầm cùng hoạt động. Trong đó có 3 loại tàu ngầm tấn công bao gồm các lớp Los Angeles, Seawolf và Virginia cùng một lớp tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo là Ohio. Trong biên chế của Hải quân Mỹ có khoảng hơn 60 tàu ngầm đang hoạt động. Trong đó cso 36 tàu ngầm tấn công lớp Los Angeles. Nhật Bản đang tìm kiếm vũ khí của nước ngoài để trang bị cho các tàu ngầm lớp Soryu, đồng thời dự định tăng hạm đội từ 18 lên 22 tàu ngầm chạy diesel vào năm 2018. Australia đã hoàn thành hợp đồng trị giá 25 tỷ USD để mua nhiều tàu khu trục chống tàu ngầm từ công ty BAE Systems của Anh. Bên cạnh đó, Australia cũng ký hợp đồng trị giá 38 tỷ USD với nhà thầu DCNS để chế tạo tàu ngầm hiện đại Shortfin Carracuda cho hải quân nước này. Dựa trên thiết kế mẫu tàu ngầm hạt nhân mới lớp Scorpene của Pháp, tàu ngầm này được thay thế lò phản ứng hạt nhân bằng động cơ diesel – điện, trang bị hệ thống điều khiển chiến đấu của Mỹ, giúp Australia có thể phát huy sức mạnh ra xa trên vùng biển phía Bắc.

Tàu ngầm có vai trò chiến lược, mang tính quyết định sống còn ở Biển Đông

Tàu ngầm được sử dụng để phá vỡ những tuyến đường thương mại, bí mật triển khai quân, né tránh các đường biên của đối thủ để tạo nên yếu tố bất ngờ. Là một công cụ thiết yếu trong chiến tranh giữa các nước. Với những tranh chấp trên Biển Đông, tàu ngầm được sử dụng để thu thập thông tin tình báo, tổng hợp dữ liệu về các hạm đội của đối phương, thậm chí có thể giám sát những gì đang diễn ra trên đất liền và ngăn chặn những cuộc giao tranh chớp nhoáng. Trong trường hợp chiến tranh xảy ra, tàu ngầm hoạt động trong khu vực sẽ tạo ra kết quả khác biệt trong xung đột, nó được trang bị tên lửa hành trình có thể tấn công những mục tiêu trên đất liền.

Xu hướng phát triển đội tàu ngầm thành lực lượng chủ lực nói trên càng rõ nét ở trong khu vực Biển Đông, bởi vì các nước trong khu vực phải đối phó với khả năng quân sự ngày càng mạnh của Trung Quốc. Bắc Kinh hiện có nhiều phương tiện phòng thủ trên biển và nhiều loại máy bay chiến đấu tối tân để ngăn chặn các tàu của đối phương tiến gần bờ biển của họ.

Tính đến thời điểm hiện tại, trong các nước tồn tại tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông chỉ có Trung Quốc sở hữu tàu ngầm hạt nhân (10-13 tàu). Đây là một trong những ưu thế vượt trội so với các nước khác, tạo mối uy hiếp lớn đến cục diện tranh chấp trong khu vực. Theo giới chuyên gia, tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đạn đạo (SSBN) cũng như tàu ngầm hạt nhân tấn công (SSN) đều có khả năng chiến đấu cao, sẵn sàng tiêu diệt bất cứ mục tiêu nào. SSN thường được trang bị nhiều loại tên lửa hành trình khác nhau, dùng để tấn công các mục tiêu trên biển hoặc trên đất liền ở tầm gần. Trong khi đó, SSBN mang được vũ khí hạt nhân, có thể ẩn nấp dưới biển và phóng tên lửa đạn đạo mang đầu hạt nhân đủ sức tiến hành tấn công phủ đầu hay tấn công đáp trả với mục tiêu ở bất cứ nơi nào. Giới phân tích đánh giá SSBN sẽ có vai trò ngày càng quan trọng trong chiến lược an ninh quốc gia của các cường quốc trên thế giới. Giáo sư James R. Holmes, từ Học viện Chiến tranh hải quân Mỹ (Naval War College) cho biết, theo kế hoạch xây dựng của hải quân Mỹ, gần một nửa số ngân sách 106,4 tỉ USD chi cho đóng tàu giai đoạn 2019 – 2023 sẽ được dành cho SSBN cùng SSN. Cụ thể sẽ có 32,9 tỉ USD được chi cho công tác đóng 10 chiếc SSN và 16,7 tỉ USD cho 1 chiếc SSBN. Phía Nga cũng dự kiến đến năm 2025 đóng được 4 tàu ngầm lớp Borei-II, và Trung Quốc sẽ bắt đầu đóng các tàu Type 096 trong vài năm tới. Cả Borei-II lẫn Type 096 được cho sẽ có khả năng di chuyển với tốc độ hơn 30 hải lý, nhanh hơn SSBN lớp Columbia 10 hải lý.

Đáng chú ý, Bộ Chỉ huy Chiến lược và Cơ quan Tình báo Quốc phòng Mỹ tiết lộ tàu ngầm trang bị vũ khí hạt nhân Trung Quốc đã bắt đầu thực hiện nhiệm vụ tuần tra chiến đấu từ năm ngoái, nhưng Bắc Kinh không đưa ra thông báo chính thức về các lần tuần tra này. Bắc Kinh hồi năm 2014 lần đầu tiên điều các tàu ngầm tấn công đến Ấn Độ Dương với mục đích bề ngoài là hỗ trợ hoạt động chống cướp biển, nhưng thực chất là nhằm thu thập thông tin và phô diễn năng lực tàu ngầm.

Tàu ngầm Trung Quốc có đáng sợ như những gì Bắc Kinh tuyên truyền

Có thể nói rằng nếu so với Mỹ hay Nga (và trước đây là Liên Xô) thì Trung Quốc vẫn là quốc gia đi sau trong việc sử dụng năng lượng hạt nhân cho tàu biển và tàu ngầm. Trong năm cường quốc là thành viên Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc và cũng là năm cường quốc sở hữu vũ khí hạt nhân thì Trung Quốc là quốc gia cuối cùng phát triển thành công tàu ngầm hạt nhân. Theo các thông tin chính thức thì hiện Trung Quốc mới có sáu tàu ngầm đạn đạo hạt nhân và mới đang bắt đầu phát triển các tàu nổi sử dụng năng lượng hạt nhân.

Không những vậy, về chiến lược hạt nhân, cần phải khẳng định rằng nếu so với các quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân khác như Mỹ, Nga, Pháp hay thậm chí là các quốc gia mới sở hữu vũ khí hạt nhân gần đây như Ấn Độ, Pakistan, Triều Tiên thì Trung Quốc có chiến lược hạt nhân tương đối thận trọng với lực lượng hạt nhân không lớn. Điều này đến từ nguyên tắc khá nhất quán của Trung Quốc từ trước đến nay đó là răn đe hạt nhân (nuclear deterrence) chỉ dùng cho mục đích phòng thủ. Theo đó, Trung Quốc sẽ không sử dụng vũ khí hạt nhân để tấn công đối phương trước (no-first-use). đây là những chính sách mang tính kiềm chế đáng được khuyến khích trong bối cảnh Mỹ và Nga đang ngấp nghé ở ngưỡng cửa chạy đua hạt nhân trở lại, sau sự đổ vỡ của các hiệp ước kiểm soát vũ khí hạt nhân như ABM, START II và gần đây nhất là INF. Vì lý do này mà đội tàu ngầm đạn đạo hạt nhân của Trung Quốc cũng không lớn (tổng số sáu tàu, trong khi Nga có 15 tàu và Mỹ có tới 18 tàu). Nhìn chung sự tồn tại của đội tàu này là để răn đe các quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân khác và đồng minh của họ (như Nhật Bản – đồng minh của Mỹ và được Mỹ bảo vệ về mặt hạt nhân trong chiến lược “ô hạt nhân” của nước này) chứ không nhằm áp chế các quốc gia láng giềng có tranh chấp lãnh thổ với nước này.

Ngược lại, việc Trung Quốc đẩy mạnh giành quyền kiểm soát các đảo, đá ở Biển Đông một phần chính là để tăng khả năng bảo vệ cho các tàu ngầm đạn đạo hạt nhân này khi di chuyển từ các căn cứ tàu ngầm trên đảo Hải Nam ra khu vực Thái Bình Dương. Ngoài ra, các tàu ngầm đạn đạo hạt nhân – vốn chủ yếu phục vụ mục đích phòng thủ, răn đe hạt nhân, Trung Quốc còn sở hữu các tàu ngầm tấn công chạy bằng năng lượng hạt nhân thuộc lớp Hán (Type 091) và Thương (Type 093). Tuy Trung Quốc không thực sự là quốc gia đi đầu trong việc phát triển công nghệ tàu ngầm tấn công chạy bằng năng lượng hạt nhân – đặc biệt là trong việc giảm độ ồn hoạt động cho tàu – nhưng chín tàu ngầm lớp Hán và Thương này vẫn là công cụ áp chế hữu hiệu của Trung Quốc trong các xung đột trên biển, bởi chúng thừa hưởng những ưu thế vượt trội của việc sử dụng năng lượng hạt nhân như tầm hoạt động gần như là vô hạn, trọng lượng nước rẽ lớn (cho phép chứa nhiều vũ khí lớn và hiện đại hơn như tên lửa hành trình).

Vì vậy, các nước ở Biển Đông sẽ phải quan tâm nhiều hơn tới đội tàu này (chứ không phải các tàu đạn đạo hạt nhân), mặc dù hiện nay ít có khả năng Trung Quốc sẽ dùng đội tàu này làm công cụ răn đe. Chủ lực của Trung Quốc vẫn là các lực lượng truyền thống (hải cảnh, dân quân biển) và đội tàu đang được xây dựng một cách cấp tập, trong đó đặc biệt nguy hiểm là các tàu sân bay Liêu Ninh, tàu sân bay lớp 001A và sắp tới là các tàu sân bay lớp 002, 003.

RELATED ARTICLES

Tin mới