Ngày 29/11/2019, tại trung tâm Hội thảo quốc tế ở thủ đô New Delhi, Ấn Độ đã diễn ra hội thảo khoa học: “Biển Đông – những thách thức hiện tại và triển vọng tương lai”. Các đại biểu tham dự Hội thảo nhấn mạnh Biển Đông là tuyến hàng hải quan trọng hàng đầu thế giới với lượng hàng hóa được vận chuyển qua Biển Đông trị giá khoảng 5.000 tỷ USD; có 9 trong 10 cảng container bận rộn nhất thế giới nằm ở khu vực này nên Biển Đông có vai trò quan trọng đối với thương mại quốc tế.
Biển Đông không chỉ liên quan tới khu vực Đông Nam Á mà gắn liền với lợi ích và sự quan tâm toàn cầu. Do vậy, Biển Đông được coi là một trọng tâm trong chiến lược Ấn Độ dương – Thái Bình dương mà Mỹ đang cùng với Úc, Nhật, Ấn Độ (gọi chung là “Bộ tứ”) tích cực thúc đẩy trong thời gian gần đây.
Ấn Độ có lợi ích lớn ở Biển Đông. Các diễn biến căng thẳng ở Biển Đông ảnh hưởng trực tiếp tới thương mại và lợi ích kinh tế của Ấn Độ. Phát huy vai trò của Ấn Độ ở Biển Đông là một phần quan trọng trong chính sách hướng Đông của Ấn Độ.
Nhìn lại vụ việc nhóm tàu Hải Dương 08 của Trung Quốc xâm lấn vùng biển Việt Nam từ đầu tháng 7 đến cuối tháng 10/2019, các đại biểu cho rằng, việc Trung Quốc đưa tàu khảo sát Hải Dương 8 và nhiều tàu hộ tống có vũ trang xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam xung quanh khu vực bãi Tư Chính trong nhiều tháng đã làm gia tăng căng thẳng và bất ổn trong khu vực, gây lo ngại đối với cộng đồng quốc tế. Điều này làm tổn hại hình ảnh của Trung Quốc và suy giảm lòng tin của cộng đồng quốc tế đối với nước này.
Việc Trung Quốc gia tăng các hoạt động hăm dọa, gây hấn với các nước láng giềng ven Biển Đông Malaysia, Philippines, Việt Nam; phớt lờ phán quyết ngày 12/7/2016 của Tòa trọng tài thường trực vụ kiện Biển Đông do Philippines khởi sướngđang trở thành mối đe dọa lớn nhất đối với hòa bình, ổn định, tự do, an toàn hàng hải và hàng không ở Biển Đông.
Các học giả tham gia hội thảo khẳng định Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS) năm 1982 là văn bản có tính pháp lý như hiến pháp về biển, là nền tảng cho ổn định trên biển và tự do hàng hải. Chính vì thế, hành động phi pháp của Trung Quốc ở Biển Đông gần đây đang thách thức trật tự thế giới dựa trên luật pháp.
Sau khi trở thành thành viên Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS) 25 năm trước, Việt Nam đã thực hiện các quyền của quốc gia ven biển được nêu trong UNCLOS, xác định các vùng biển của Việt Nam theo các quy định của Công ước; trình Hồ sơ ranh giới ngoài của thềm lục địa lên Liên Hợp quốc năm 2009; ban hành Luật Biển năm 2012, Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015. Trong các văn bản pháp luật, Việt Nam đã đưa ra quy định chi tiết quyền và nghĩa vụ của các quốc gia khác khi thực hiện các hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam.
Trung Quốc cũng đã tham gia vào UNCLOS, nhưng vấn đề là ở chỗ Trung Quốc đã không tuân thủ các quy định của UNCLOS, luôn viện dẫn sai lệch, bóp méo nội dung các điều khoản của UNCLOS. Trung Quốc tự cho phép mình quyền diễn giải yêu sách chủ quyền trên biển hoàn toàn không dựa trên luật pháp quốc tế. Trung Quốc đòi hỏi vùng biển rộng lớn, chiếm hầu hết Biển Đông dựa trên một chiếc bản đồ do một tư nhân vẽ tùy tiện cách đây hơn nửa thế kỷ, mô tả “đường lưỡi bò” lúc đầu có 11 đoạn, sau đó còn 9 đoạn và đến nay lại có 10 đoạn và hoàn toàn không có tọa độ rõ ràng.
Sau khi nộp lên Liên hợp quốc tấm bản đồ vẽ “đường lưỡi bò” kèm theo một công hàm năm 2009, Trung Quốc đã có nhiều hành vi gây hấn với các nước láng giềng ở Biển Đông như: năm 2011, Trung Quốc tiến hành các hoạt động quấy nhiễu và cắt cáp ngầm tàu Bình Minh 2; năm 2012, Trung Quốc chiếm bãi cạn Scarborough do Philippines kiểm soát, ngang nhiên mời thầu quốc tế khai thác 9 lô dầu khí nằm trong đặc quyền kinh tế của Việt Nam và thành lập thành phố “Tam Sa” bao gồm cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Năm 2014, cùng với việc hạ đặt trái phép dàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam, Trung Quốc ồ ạt bồi đắp, mở rộng các cấu trúc ở Biển Đông và sau đó là tiến hành quân sự hóa các cấu trúc này….
Ý đồ của Trung Quốc là biến những vùng biển hoàn toàn không có tranh chấp của các nước láng giềng ven Biển Đông thành vùng biển tranh chấp để rồi đòi “khai thác chung”.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng trên thực tế đã có luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc, UNCLOS, các tài liệu pháp lý khác và mới đây nhất là phán quyết ngày 12/7/2016 của Tòa Trọng tài vụ kiện Biển Đông do Philippines khởi xướng để giải quyết tình hình ở Biển Đông, nhưng Trung Quốc bất chấp tất cả và luôn có các hoạt động vi phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền, quyền tài phán hợp pháp được luật pháp quốc tế công nhận của các nước nhỏ khác ven Biển Đông.
Thực tiễn đã khẳng định luật quốc tế là công cụ tốt nhất để giải quyết các tranh chấp. Nhưng việc tiếp tục coi thường UNCLOS, Trung Quốc đang thể hiện với các nước liên quan rằng họ vẫn muốn hành xử theo kiểu “quyền lực thuộc về kẻ mạnh” hay nói một cách khác là “cá lớn nuốt cá bé”. Hiện đang tồn tại 2 nguy cơ lớn nhất đối với khu vực: (i) Trung Quốc tiếp tục hướng tới con đường giành thêm các quyền kiểm soát Biển Đông, khống chế không gian biển ở khu vực, tiến tới độc chiếm Biển Đông; (ii) sự áp đặt đơn phương của Trung Quốc đã chà đạp lên luật pháp quốc tế. Nếu không bị ngăn chặn sẽ tạo ra một hiện thực mới trên Biển Đông là “sức mạnh của Trung Quốc đứng cao hơn luật pháp quốc tế”, buộc mọi người phải chấp nhận”.
Trong bối cảnh đó, các nước trong khu vực cần đẩy mạnh việc lên tiếng chống lại các hành vi sai trái của Trung Quốc trên Biển Đông và điều này cần được công khai trên các diễn đàn quốc tế. Đây là việc làm cần thiết vì có một thực tế là chỉ trong vài năm gần đây, thế giới mới bắt đầu quan tâm hơn đến phản ứng của các quốc gia trực tiếp bị ảnh hưởng bởi những diễn biến phức tạp ở Biển Đông, trong đó có Việt Nam, Philippines và Indonesia. Trước đó, tranh chấp trên Biển Đông thường được coi là “câu chuyện riêng” giữa các nước ven Biển Đông với Trung Quốc hay là sự cạnh tranh giữa Mỹ và Trung Quốc, thế giới thường chú tâm vào phản ứng của hai quốc gia này.
Các nước nhỏ ven Biển Đông cần đề cao tinh thần thượng tôn pháp luật, vai trò của UNCLOS, khẳng định bất cứ yêu sách nào về biển cũng phải được xây dựng trên cơ sở và trong phạm vi cho phép của UNCLOS. Khi có bất đồng hoặc khác biệt liên quan đến giải thích và áp dụng Công ước, các bên liên quan cần giải quyết thông qua các biện pháp hòa bình khác, phù hợp với luật pháp quốc tế, bao gồm cả các biện pháp pháp lý (thông qua Tòa án quốc tế hoặc cơ quan hòa giải…).
Cùng với đó, việc cung cấp chi tiết, cập nhật thường xuyên hiện trạng hoạt động của các tàu Trung Quốc, nhất là các hoạt động gây hấn, xâm lấn của các tàu Trung Quốc kèm theo các bản đồ chỉ rõ tọa độ hoạt động vi phạm; cung cấp hình ảnh các tàu chấp pháp lớn của Trung Quốc phun vòi rồng, đâm va vào các tàu thực thi pháp luật, tàu cá của các nước ven Biển Đông giúp bạn bè quốc tế và kể cả người dân Trung Quốc biết về hoạt động bất hợp pháp của các tàu Trung Quốc để họ thấy rõ bản chất hiếu chiến của Bắc Kinh.
Về tiềm lực kinh tế, quân sự, các nước ven Biển Đông đều không thể so sánh với Trung Quốc, song thế mạnh của các nước này là luật pháp quốc tế. Mặt khác, sử dụng công cụ pháp lý để bảo vệ chủ quyền, các quyền và lợi ích của mỗi quốc gia trước nguy cơ xâm lược là một biện pháp hòa bình phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.
Cộng đồng quốc tế, nhất là các nước châu Âu đều kêu gọi tuân thủ luật pháp quốc tế ở Biển Đông, sử dụng công cụ pháp lý để giải quyết các tranh chấp, bất đồng. Mỹ còn thường xuyên tiến hành tự do hàng hải ở Biển Đông để bảo vệ luật pháp quốc tế; thực thi phán quyết 12/7/2016 của Tòa Trọng tài. Các nước nhỏ ven Biển Đông cần tranh thủ điều này để phát huy vai trò của công cụ pháp lý trong chống lại sự bành trướng của Trung Quốc ở Biển Đông.
Công cụ pháp lý giúp các nước ven Biển Đông làm rõ chính nghĩa của mình để nhận được sự ủng hộ của quốc tế. Một khi cộng đồng quốc tế đồng loạt lên tiếng chỉ trích những hành vi sai trái, gây mất an toàn, an ninh ở Biển Đông, Bắc Kinh sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc thúc đẩy tham vọng bá quyền của họ.