Bộ Ngoại giao Indonesia (30/12) đã triệu Đại sứ Trung Quốc tại Indonesia Tiêu Thiên (Xiao Qian) tới giao thiệp và trao công hàm phản đối chính thức về việc các tàu tuần tra biển của Trung Quốc đã xâm nhập vùng nước thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia, xâm phạm chủ quyền của Indonesia.
Theo thông tin trên, Bộ Ngoại giao Indonesia đã ra tuyên bố khẳng định các tàu tuần tra biển Trung Quốc đã đi vào vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia ở gần quần đảo Natuna, nhưng không tiết lộ thời gian xảy ra vụ việc. Người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Indonesia Teuku Faizasyah cho biết, Indonesia đã phản đối sự hiện diện của tàu cảnh sát biển Trung Quốc ở vùng lãnh biển Indonesia gần Biển Đông đang có tranh chấp, cho rằng “đây là sự xâm phạm chủ quyền”. Ông cũng nói Indonesia sẽ không bao giờ công nhận “Đường 9 đoạn” do Trung Quốc tự ý hoạch định vì “Đường 9 đoạn” mà Trung Quốc yêu sách đã vi phạm Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1882 (UNCLOS). Ngoài ra, Bộ Ngoại giao Indonesia nhắc lại rằng Indonesia không phải là nước yêu sách chủ quyền ở Biển Đông và không có vùng biển có quyền tài phán chồng lấn với Trung Quốc. Tuy nhiên, trên bản đồ “Đường 9 đoạn” của Trung Quốc tự vẽ, quần đảo Natuna của Indonesia được coi là thuộc vùng biển của Trung Quốc. Với tư cách là một trong những nước thành viên tham gia của UNCLOS, Trung Quốc cần tuân thủ Công ước này.
Bộ Ngoại giao Indonesia cũng cho biết, cơ quan này đã triệu Đại sứ Trung Quốc tại Indonesia Tiêu Thiên (Xiao Qian) tới giao thiệp và trao công hàm phản đối chính thức về vụ việc này, nhưng nhắc lại hai bên sẽ duy trì quan hệ song phương tốt đẹp.
Trước đó, truyền thông Indonesia cho biết nhiều ngư dân Indonesia đã phát hiện ra rằng tàu tuần tra biển của Trung Quốc gần đây đã nhiều lần hộ tống các tàu cá Trung Quốc vào đánh bắt trong vùng biển của Indonesia. Các ngư dân đã thông báo tình hình cho Cơ quan An ninh Hàng hải Indonesia. Bộ Ngoại giao Indonesia nhắc lại rằng Indonesia là một quốc gia không có yêu sách ở Biển Đông (non-claimant state) và không có vùng biển có quyền tài phán chồng lấn với Trung Quốc. Theo The Jakarta Post (30/12), Hồ sơ của Cơ quan An ninh Hàng hải Indonesia (Bakamla) cho thấy, trong khoảng thời gian từ ngày 19 – 24/12, ít nhất 63 tàu cảnh sát biển và tàu đánh cá của Trung Quốc, trong đó có hàng chục tàu hải cảnh đã tự ý xâm nhập vào vùng biển Natuna của tỉnh quần đảo Riau mà không được phép. Cục An ninh Hàng hải đã cử tàu tới khu vực này giám sát và thông báo cho Bộ Ngoại giao Indonesia về phát hiện này để họ áp dụng hành động ngoại giao phù hợp.
Được biết, Indonesia là quốc gia quần đảo, có nhiều điều kiện tự nhiên, địa lý và chiến lược thuận lợi để triển khai chính sách biển. Theo đó, Indonesia có ưu thế về vị trí địa chiến lược do nằm ở trung tâm khu vực. Indonesia không chỉ nằm giữa hai lục địa châu Á và châu Australia, giữa hai đại dương lớn là Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, mà còn nằm giữa cường quốc chi phối và cường quốc mới nổi, giữa trung cường phía Nam và cường quốc phía Bắc, giữa các nước phát triển và đang phát triển. Indonesia còn có nguồn tài nguyên biển dồi dào tạo nền tảng vững chắc cho phát triển. Indonesia là nước quần đảo lớn nhất thế giới với hơn 17.000 hòn đảo, có rừng nhiệt đới lớn thứ ba thế giới sau rừng Amazon và rừng Công-gô với 5,8 triệu km2 lãnh hải trong khi diện tích đất chỉ 1,9 triệu km2. Indonesia có bờ biển dài 92.000 km, đứng thứ hai thế giới sau Canada. Các vùng biển của Indonesia là nơi cư trú của khoảng 20% lượng và 76% chủng loài san hô, 20% rừng đước của thế giới, có 3 triệu hecta cỏ biển. Các loài thực vật này có vai trò quan trọng trong việc hấp thụ khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Bên cạnh đó, các vùng biển của Indonesia có nguồn cá phong phú, cung cấp 16% lượng cá ngừ thế giới. Không những vậy, Indonesia có vị trí địa chính trị quan trọng, án ngữ của tuyến hàng hải huyết mạch qua khu vực, đặc biệt là Eo biển Malacca, Sunda và Lombok. Theo Hội nghị Liên Hợp Quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD), 50% tổng thương mại đường biển toàn cầu được vận chuyển qua các Eo biển Malacca, Sunda và Lombok. Trong đó, eo biển Malacca giữa Indonesia, Singapore và Malaysia là cửa ngõ giao thương của châu Á. Tuyến đường biển qua Malacca là đường biển kết nối chính giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Giá trị chiến lược của eo biển Malacca càng tăng lên khi kênh đào Suez được mở vào năm 1869, rút ngắn khoảng cách đường biển giữa châu Âu và Viễn Đông xuống còn 1/3 và làm tăng sự nhộn nhịp của Eo biển Malacca. Eo biển Sunda và Eo biển Lombok nhỏ hơn Malacca nhưng cũng quan trọng trong việc kết nối giao thương đường biển từ Biển Đông, qua biển Java và Ấn Độ Dương. Hàng năm có khoảng 2.280 tàu chạy qua Eo biển Sunda vận chuyển khoảng 100 triệu tấn hàng hóa trị giá 5 tỷ USD, trong khi hơn 240 tàu chạy qua Eo biển Lombok vận chuyển khoảng 36 triệu tấn hàng trị giá 40 triệu USD. Các eo biển này làm tăng giá trị chiến lược của Indonesia.
Thời gian gần đây, Indonesia đang thúc đẩy thực hiện nhiều chủ trương, chính sách mới liên quan vấn đề biển đảo, nhằm bảo vệ chủ quyền và phát triển kinh tế biển. Cụ thể:
Về mục tiêu, chính sách biển xác định Indonesia phấn đấu trở thành một quốc gia biển mạnh, phát triển, đảm bảo chủ quyền và độc lập, đóng góp tích cực cho hòa bình và an ninh ở khu vực và trên thế giới phù hợp với lợi ích quốc gia của Indonesia. Cụ thể, Chính sách Biển của Indonesia nhằm: Quản lý tối ưu và phát triển bền vững tài nguyên biển; phát triển chất lượng nguồn nhân lực, khoa học và công nghệ biển; phát triển lực lượng an ninh quốc phòng biển mạnh; tăng cường chủ quyền, luật pháp và an toàn trên biển; quản trị đại dương tốt; đảm bảo phúc lợi xã hội công bằng cho người dân ở khu vực ven biển và các đảo nhỏ; gia tăng sức cạnh tranh và tăng trưởng của kinh tế và các ngành công nghiệp gắn với biển; xây dựng cơ sở hạ tầng biển chắc chắn; lên kế hoạch quản lý không gian biển; bảo vệ môi trường biển; ngoại giao biển; và xây dựng bản sắc văn hóa biển.
Về nguyên tắc triển khai, chính sách biển tập trung tăng cường nhận thức coi Indonesia là quốc gia quần đảo thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; phát triển bền vững: khai thác tài nguyên sinh vật không vượt quá khả năng tái tạo và phục hồi; khai thác tài nguyên phi sinh vật không vượt quá khả năng phát triển của các tài nguyên thay thế; mức độ khai thác hiện tại không vượt quá nhu cầu sử dụng trong tương lai; dự liệu các tác động tiêu cực có thể xảy đến trong quá trình khai thác tài nguyên; phát triển kinh tế xanh: phát triển kinh tế biển đi đôi với bảo vệ môi trường; quản lý thống nhất và minh bạch: quản lý trong một hệ thống đồng nhất, xây dựng các quy định rõ ràng và minh bạch, cung cấp đầy đủ thông tin để người dân hiểu; khuyến khích sự tham gia của các bên liên quan vào quá trình lên kế hoạch, quyết định, triển khai, giám sát, kiểm soát, tiếp cận thông tin và sử dụng tài nguyên; tạo sự bình đẳng và công bằng: mọi cá nhân, nhóm và tầng lớp dân cư từ các vùng miền và tôn giáo khác nhau đều được đối xử bình đẳng, cùng có lợi; tăng cường kết nối giữa các trung tâm kinh tế với các vùng miền, phát triển các dự án ở các đảo ngoài xa, ưu tiên cải thiện phúc lợi cho nhóm thu nhập thấp, đặc biệt là ngư dân.
Về biện pháp triển khai, chính sách biển đề ra 76 biện pháp tập trung trong 7 trụ cột gồm quản lý tài nguyên biển và phát triển nguồn nhân lực; tăng cường quốc phòng an ninh từ biển, chấp pháp và an toàn trên biển; quản trị đại dương; phát triển kinh tế biển, cơ sở hạ tầng và phồn vinh cho người dân; quản lý không gian biển và bảo vệ môi trường biển; xây dựng văn hóa biển và xây dựng ngoại giao biển.
Chính sách biển đồng thời đề ra kế hoạch hành động 5 năm theo nhiệm kỳ tổng thống. Kế hoạch hành động hiện tại từ 2016-2019 đề ra 425 hoạt động được phân bổ trong 5 nhóm ưu tiên, gồm: Biên giới biển, không gian biển và ngoại giao biển do Bộ Ngoại giao, Quân đội, Bộ các vấn đề biển và nghề cá và Bộ Thông tin chủ trì thực hiện; Công nghiệp biển và kết nối do Bộ Công nghiệp, Bộ Giao thông, Bộ Việc làm và nhà ở, Cơ quan tìm kiếm cứu nạn chủ trì; Dịch vụ, tài nguyên biển và quản lý môi trường biển do Bộ các vấn đề biển và nghề cá, Bộ Năng lượng và khoáng sản, Bộ Công nghiệp, Bộ Môi trường và rừng chủ trì; Quốc phòng và an ninh biển do Quân đội, Bộ Quốc phòng, Cơ quan an ninh biển, Bộ Các vấn đề biển và nghề cá chủ trì; Văn hóa biển do Bộ Các vấn đề biển và nghề cá, Bộ Giao thông, Bộ Nghiên cứu khoa học và giáo dục và Bộ Nhân lực chủ trì thực hiện.
Nhìn tổng thể, hầu hết các hoạt động mà văn kiện phác thảo tập trung vào nội bộ hơn là hướng ngoại nhằm biến Indonesia thành một cường quốc biển. Ví dụ, các Bộ Giao Thông, Bộ Công nghiệp và Bộ các vấn đề Biển và Nghề cá của Indonesia đảm nhiệm 181 hoạt động, trong khi Bộ Ngoại giao của Indonesia chỉ phải đảm nhiệm 23 hoạt động. Phần ngoại giao biển chỉ đề cập đến việc xây dựng các quy chuẩn và ngoại giao biển song và đa phương nói chung. Phát triển quân sự chủ yếu đề cập đến các chương trình phát triển căn cứ hải quân, duy tu bảo dưỡng các cơ sở, chỉ huy và kiểm soát, chủ yếu phục vụ mục tiêu bảo vệ vùng biển của Indonesia hơn là phát triển quân đội thành một lực lượng mạnh hoạt động tại các vùng biển bên ngoài giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương.