Monday, November 25, 2024
Trang chủSự thật Trung HoaCác nhân tố tác động đến điều chỉnh chiến lược của TQ...

Các nhân tố tác động đến điều chỉnh chiến lược của TQ đối với Biển Đông

Từ những năm đầu tiên của thế kỷ 21 đến nay, Trung Quốc liên tục có sự điều chỉnh chính sách, cách tiếp cận trọng vấn đề Biển Đông. Tuy nhiên, dã tâm và tham vọng độc chiếm vùng biển này không thay đổi.

Nguyên nhân Trung Quốc tìm mọi cách độc chiếm Biển Đông

Biển Đông là vùng biển có vị trí địa chiến lược quan trọng đối với Trung Quốc, cũng là vùng biển có nguồn tài nguyên phong phú, khiến Bắc Kinh tìm mọi cách kiểm soát khu vực này. Theo đó, những lợi ích mà Trung Quốc thu được thông qua việc độc chiếm Biển Đông có thể chia thành ba nhóm cơ bản: lợi ích chiến lược (an ninh), lợi ích kinh tế (phát triển) và lợi ích trong việc nâng cao vai trò quốc tế (ảnh hưởng), trong đó các lợi ích có sự đan xen và tác động qua lại lẫn nhau.

Lợi ích chiến lược bao gồm việc bảo vệ chủ quyền và quyền chủ quyền ở biển Hoa Đông và biển Đông và nâng cao khả năng thu hồi Đài loan về lâu dài, phòng ngừa sự can dự của Mỹ vào một cuộc xung đột có thể xảy ra với Đài Loan trong tương lai, tiến tới đẩy dần Mỹ ra xa.

Lợi ich kinh tế bao gồm: (1) Bảo vệ và phát triển các trung tâm kinh tế nằm dọc bờ biển như Quảng Châu, Thượng Hải và vùng duyên hải Trung Quốc. Trên 40% dân số Trung Quốc sống ở các vùng duyên hải, và sản xuất tới 60% tổng sản phẩm quốc nội (GDP); (2) Bảo vệ chống cướp biển và khủng bố trên biển, kiểm soát và mở rộng phạm vi kiểm soát đối với các tuyến hàng hải huyết mạch. Lợi ích này ngày càng trở nên quan trọng vì Trung Quốc có đội tàu thương mại lớn nhất thế giới, đang sử dụng các tuyến hàng hải quan trọng trong khu vực để kết nối Trung Quốc với thế giới. Trung Quốc đang ngày càng phụ thuộc vào nguồn dầu nhập khẩu để vận hành nền kinh tế, vì vậy Trung Quốc đã mua nhiều công ty và tập đoàn dầu khí ở nước ngoài và lượng dầu này chủ yếu được chở về nước trên các tuyến hàng hải và qua các eo biển, nhất là tuyến tiếp dầu từ Trung Đông và tuyến vận tải qua eo biển Malacca. Trong những năm gần đây, hải quân viễn dương của Trung Quốc tăng cường thực hiện bảo hộ hàng hải và tập trận nhằm phục vụ mục đích này, thực chất là một bộ phận trong chiến lược “phòng ngự biển xa”. (3) Thực thi hiệu quả quyền chủ quyền của Trung Quốc, bảo vệ vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa mở rộng của Trung Quốc khỏi bị các nước láng giềng đánh cắp tài nguyên và đẩy mạnh khai thác tài nguyên biển vì vùng thềm lục địa mở rộng, đặc quyền kinh tế và các đảo mà Trung Quốc có tranh chấp chủ quyền được cho là có chứa nhiều tài nguyên dầu và khí. Các khoáng chất quan trọng cho phát triển kinh tế Trung Quốc và cho một số ngành kỹ thuật then chốt cũng có thể khai thác ngoài biển. Hàm lượng kinh tế biển trong tổng thể nền kinh tế Trung Quốc đang ngày càng gia tăng.

Lợi ích ảnh hưởng bao gồm tăng cường hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực như cứu trợ, cứu nạn, tham gia ngày càng nhiều vào xử lý các vấn đề toàn cầu hay xuyên quốc gia như chống khủng bố, cướp biển và cướp có vũ trang trên biển,… qua đó nâng cao vai trò, vị thế và ảnh hưởng quốc tế của Trung Quốc. Về ảnh hưởng, Trung Quốc muốn cạnh tranh với ba đối thủ hàng hải tiềm tàng là Mỹ, Nhật Bản và Ấn Độ, nhất là Ấn Độ vì đa số các tuyến hàng hải quan trọng của Trung Quốc đều đi qua Ấn Độ Dương, trong khi Ấn Độ có một lực lượng hải quân rất mạnh, lại đang gia tăng hợp tác với Nhật và Mỹ. Trung Quốc lo ngại Ấn Độ muốn kiểm soát Ấn Độ Dương.

Nguyên nhân sự điều chỉnh chính sách

Để hiểu được động cơ đằng sau những thay đổi trong cách hành xử của Trung Quốc ở Biển Đông, cần phải đặt chính sách Biển Đông của Trung Quốc trong mối liên hệ với những diễn biến mới trong bối cảnh quốc tế, chính trị nội bộ của Trung Quốc, đặc biệt là gắn nó với chiến lược an ninh- đối ngoại của Bắc Kinh hiện nay. Có thể nhận định, điều chỉnh chính sách của Trung Quốc ở Biển Đông nằm trong thay đổi chiến lược an ninh và đối ngoại của Bắc Kinh trong bối cảnh quốc tế và trong nước có nhiều nhân tố mới.

Thay đổi cơ bản nhất trong môi trường chiến lược quốc tế là việc sức mạnh tổng hợp của Trung Quốc tăng mạnh làm cho khoảng cách kinh tế, quân sự, và quốc phòng giữa Mỹ và Trung Quốc ngày càng thu hẹp, cho cán cân quyền lực kinh tế và quân sự chuyển dịch theo hướng có lợi cho Trung Quốc. Trung Quốc vươn lên mạnh mẽ vượt Đức và Nhật Bản, trở thành nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới trong lúc đó Mỹ suy yếu tương đối sau cuộc khủng hoảng tài chính, kinh tế, gặp khó khăn cả bên trong và bên ngoài. Một phần nguồn lực kinh tế được đầu tư để hiện đại hóa quốc phòng, đặc biệt là hải quân. Đô đốc Mike Mullen, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân, nhận định rằng ý đồ chiến lược đằng sau sự phát triển các khả năng quân sự mới của Trung Quốc dường như tập trung vào lực lượng hải quân Mỹ và căn cứ quân sự của Mỹ ở khu vực này của thế giới.

Thực lực kinh tế hùng mạnh, đặc biệt là kho dự trữ ngoại hối to lớn và vị thế hang đầu trong nền thương mại quốc tế, cho phép Trung Quốc có khả năng tác động mạnh đến kinh tế thế giới, không những thoát khỏi thế phụ thuộc vào Mỹ để phát triển mà còn đưa siêu cường này vào một tình thế “phụ thuộc sống còn về kinh tế”. Đó là lý do tại sao, Trung Quốc ngày càng tỏ ra tự tin, ngạo mạn, không còn “giấu mình chờ thời”, mà chủ động phô diễn sức mạnh về quân sự và sẵn sàng nói không với Mỹ trên nhiều vấn đề. Trung Quốc tận dụng mọi cơ hội để thay đổi luật chơi, gạt bỏ vai trò chủ đạo của Mỹ. Hiện nay, Trung Quốc là một đầu tầu kinh tế, là một bên chủ yếu nắm giữ chìa khóa đối với nhiều vấn đề chính trị tại khu vực và đang muốn chứng tỏ vai trò là cường quốc quân sự châu Á duy nhất tại Đông Á, thách thức vai trò siêu cường của Mỹ ở khu vực.

Lợi dụng việc Mỹ sa lầy trong cuộc chiến ở Afghanistan và Iraq, bối rối trong cách ứng phó với Bắc Triều Tiên và Iran, bận rộn xử lý vấn đề Israel và Palestine, Trung Quốc tìm cách từng bước lấn lướt Mỹ ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Trong những năm gần đây, Trung Quốc phát huy ảnh hưởng đối với các nước Đông Nam Á qua các cơ chế ASEAN + 1, ASEAN + 3, Cấp cao Đông Á, Tổ chức Hợp tác Thượng Hải … để đối trọng với hệ thống an ninh “trục và nan hoa” của Mỹ. Không những vậy, Trung Quốc cũng đa tham gia TAC và cùng với ASEAN thông qua Tuyên bố chung về Đối tác chiến lược ASEAN-Trung Quốc. Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng đẩy mạnh ảnh hưởng ở khu vực Đông Nam Á thông qua các kênh song phương như Trung Quốc và Indonesia ký tuyên bố chung về xây dựng quan hệ đối tác chiến luợc; Trung Quốc và Campuchia thông qua Chương trình Đối tác Hợp tác Toàn diện; Trung Quốc và Thái Lan ký Chương trình Hành động cho Hợp tác Chiến lược; Ngoài ra còn có một loạt các thỏa thuận hợp tác an ninh song phương giữa Trung Quốc với Malaysia, Việt Nam, Brunei, Singgapore, Philippines và Lào. Mới đây nhất, Trung Quốc và Philippines, Malaysia nhất trí thành lập cơ chế song phương giải quyết tranh chấp ở Biển Đông.

Ở trong nước, chính quyền Bắc Kinh ngày càng phải đối mặt với nhiều thách thức trong việc thực hiện hai mục tiêu cơ bản xuyên suốt của mình là duy trì ổn định chính trị và phát triển kinh tế, cơ sở cho tính chính đáng của Đảng Cộng sản, và ngăn chặn các làn sóng bạo loạn, ly khai trong các cộng đồng sắc tộc thiểu số ở các vùng biên cương. Quá trình đổi mới kinh tế mà không đổi mới chính trị buộc các nhà lãnh đạo thực dụng của Trung Quốc phải tìm kiếm các cơ sở chính đáng mới ở chủ nghĩa dân tộc. 

Thứ nhất, Đảng Cộng sản Trung Quốc thể hiện họ lãnh đạo dân tộc để bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Trung Quốc, từ Tây Tạng, Tân Cương đến Đài Loan và Biển Nam Hải. Bên cạnh đó, con bài chủ nghĩa dân tộc đã đuợc sử dụng tương đối thành công khi Trung Quốc phải đối mặt với các thế lực thù địch từ bên ngoài, ví dụ như trong việc Bắc Kinh phản đối Mỹ và Phương Tây trong các vấn đề dân chủ, nhân quyền, can thiệp vào Tây Tạng, Tân Cương, và Đài Loan. Đáng chú ý, một học giả Mỹ phát hiện ra một thực tế rằng các phương tiện thông tin đại chúng của Trung Quốc đưa tin nhanh, và tuyên truyền rộng rãi, mạnh mẽ về vấn đề tranh chấp biển đảo, trong khi đưa tin mờ nhạt về các tranh chấp biên giới trên bộ, và nhận định đó có thể là một sách lược để nuôi dưỡng tinh thần dân tộc và lấy đó là cơ sở để duy trì tính chính đáng của chính quyền cộng sản.

Thứ hai, tính chính đáng của Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng dựa trên việc trợ giúp các doanh nghiệp của Trung Quốc tiếp cận các nguồn tài nguyên chiến lược. Từ đầu thế kỷ 21 đến nay, để thỏa mãn một đại công xưởng tăng trưởng mạnh mẽ và không ngừng, Trung Quốc cần một lượng tài nguyên khổng lồ. Chính quyền cộng sản sử dụng triệt để các công cụ chính trị và kinh tế để hỗ trợ cho các doanh nghiệp của Trung Quốc vươn ra mạnh mẽ để giành quyền tiếp cận các nguồn tài nguyên chiến lược, từ Mỹ La Tinh đến châu Phi đến Trung Đông và các khu vực xung quanh Trung Quốc. Chính vì thế, Trung Quốc gạt Mỹ và phương Tây ra khỏi Sudan và nhiều nước châu Phi và Mỹ La Tinh khác để giành được các hợp đồng khai thác tài nguyên thô. Trong bối cảnh đó, nguồn tài nguyên ở Biển Đông, cả dầu mỏ và nguồn cá (đã được báo chí Trung Quốc thổi phồng) là một “miếng mồi” không thể bỏ qua. 

Thứ ba, chính sách đối ngoại của Bắc Kinh cũng chịu sự ảnh hưởng của cạnh tranh giữa các lực lượng, phe phái chính trị trong nội bộ Trung Quốc.

Thứ tư, Đảng Cộng sản Trung Quốc ngày càng tìm cách duy trì vai trò lãnh đạo của họ thông qua việc cổ vũ tinh thần dân tộc, khôi phục bá quyền độc tôn của Trung Quốc ở Đông Á.

Sự điều chỉnh

Chính sách đối với Biển Đông của Trung Quốc cần được xem xét trong tổng thể chiến lược an ninh và phát triển của nước này nhằm vươn lên thành một cường quốc toàn cầu. Chứng kiến sự vươn ra mạnh mẽ của Trung Quốc, một học giả nhận xét rằng “sự bành trướng của Trung Quốc trên Biển Đông chỉ là một phần của kế hoạch bành trướng tổng thể, bao gồm “bành trướng cứng” như bành trướng trên biển, trên đất liền, và bành trướng mềm như tăng cường hiện diện ở tất cả các nơi có tiềm năng lợi ích về tài nguyên, dầu mỏ, địa chính trị… cho Trung Quốc”. Mong muốn trở thành cường quốc toàn cầu của Trung Quốc đã bộc lộ từ thời Mao Trạch Đông, khi Bắc Kinh tự coi mình là lãnh tụ của các nước thế giới thứ ba trong cuộc đấu tranh với hai siêu cường và các nước công nghiệp phát triển. Định hướng chiến lược này, tuy nâng Trung Quốc lên hàng một cường quốc trung gian giữa Mỹ và Liên Xô, nhưng lại không thể giúp Trung Quốc có được nguồn vốn và công nghệ cần thiết để phát triển kinh tế. Dưới thời Đặng Tiểu Bình, Trung Quốc chuyển sang mục tiêu chiến lược “bốn hiện đại hóa”, đồng thời áp dụng phương châm “giấu mình chờ thời”. Ước vọng toàn cầu được giấu đi, kìm nén, không được cụ thể hóa, chỉ nói chung chung là phấn đấu cho một trật tự thế giới công bằng, dân chủ và “đa cực hóa”. Sau một phần tư thế kỷ “cải cách khai phóng”, Trung Quốc đã từ một nước nghèo nàn lạc hậu vươn lên thành một nước công nghiệp hóa mới, trở thành một đầu tàu tăng trưởng của thế giới, với tổng sản phẩm xã hội đứng hàng đầu thế giới. Những điều này một mặt khiến nhiều nước, nhất là Mỹ, lo ngại Trung Quốc là đối thủ tiềm tàng của họ, mặt khác cũng khiến bản thân Trung Quốc khó lòng kiềm chế trong việc bày tỏ tham vọng. Một biểu hiện của việc thiếu kiềm chế là Trung Quốc cố sức tự đưa người vào vũ trụ trong khi thu nhập quốc dân đầu người vẫn còn ở mức nghèo (hơn 1000 đôla), một việc làm mà nhiều nước phát triển cao có khả năng cũng không đầu tư vì nặng tính khoa trương nhiều hơn là hiệu quả kinh tế. Cũng trong giai đoạn này, Trung Quốc đưa ra thuyết “trỗi dậy hòa bình” nhằm biện minh cho sự vươn lên vị thế một cường quốc thế giới. Khái niệm này sau một thời gian thử nghiệm đã được thay thế bằng cụm từ nhẹ hàng hơn là “phát triển hòa bình”. Dù Trung Quốc đã hết sức cẩn trọng trong ngôn từ, người ta vẫn dễ dàng nhìn thấy, dù không dễ dàng vạch ra, tham vọng toàn cầu của Trung Quốc.

Kể từ 2007, chiến lược “giấu mình chờ thời” hay “ngoại giao hài hòa” nhường chỗ cho chiến lược an ninh và đối ngoại mang tính khẳng định hơn, chủ động và quyết liệt hơn. Về an ninh, nội dung cốt lõi của chiến lược này là xây dựng lực lượng hải quân hùng mạnh, tăng cường quyền kiểm soát của Trung Quốc ở các vùng biển trọng yếu, đảm bảo an ninh cho các hoạt động giao thương của Trung Quốc. Có nhận định cho rằng Trung Quốc đang xây dựng vành đai an ninh “chuỗi ngọc trai” kết nối các đảo mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông, Biển Đông Trung Hoa (Trung Quốc gọi tắt là Đông Hải) và Biển Nhật Bản cùng với các đảo và những cơ sở cầu cảng khác của Trung Quốc trải rộng từ Hải Nam tới Trung Đông, chuỗi ngọc trai sẽ giống như như một vành đai bao quanh rất nhiều đất liền châu Á. Những khu vực này chính là lợi ích an ninh quốc gia mà Trung Quốc tin là sống còn với cả sứ mệnh bảo vệ vùng biển cũng như chi phối châu Á – Thái Bình Dương.

Bên cạnh đó, Trung Quốc xây dựng chiến lược “hải dương xanh” và chuyển từ “phòng ngự biển gần”, sang phát triển theo hướng “hải quân viễn dương”. Trung Quốc đang lên kế hoạch đóng tàu sân bay để tăng cường phạm vi hoạt động, phát triển các loại tên lửa tấn công loại tàu này. Cùng lúc đó, hải quân Trung Quốc vươn ra xa hơn. Tháng 12/2008, hải quân Trung Quốc điều động ba chiến hạm tới vùng biển Somali, tham gia hoạt động hộ tống tàu thuyền qua lại vùng biển này; tiếp đó hai tàu thăm dò hải dương của Trung Quốc đã phá vỡ sự phong tỏa của Nhật Bản, tiến sâu vào vùng biển phụ cận đảo Điếu Ngư, thực hiện khảo sát, khiến Nhật Bản bị bất ngờ. Trung Quốc biểu dương sức mạnh hải quân – tháng 4/2009. Về kinh tế, Trung Quốc cần chạy đua để giành giật các nguồn tài nguyên chiến lược. Ảnh hưởng của Trung Quốc vươn đến châu Phi, châu Đại dương và Mỹ La Tinh để tìm các nguồn cung cấp nguyên nhiên liệu để duy trì nền kinh tế tăng trưởng nhanh chóng. Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng cần đa dạng hóa các nguồn cung dầu lửa. Có lẽ vì lý do đó mà Bắc Kinh ngày càng quyết liệt và mạnh bạo hơn trong hoạt động thăm dò dầu khí ở Biển Đông, kiểm soát và ngăn chặn hoạt động của các quốc gia khác ở vùng biển này.

Không những vậy, trong giai đoạn này, quan niệm biển của Trung Quốc đã phát triển thêm một bước với bốn nội dung tư tưởng chiến lược quan trọng gồm: phòng ngự biển xa, hải dương hài hòa, xây dựng hải quân lớn mạnh và xây dựng cường quốc biển. Đáng chú ý là cả bốn nội dung này đều thể hiện nhu cầu, khả năng, tầm nhìn và tham vọng của một nước Trung Quốc đã lớn mạnh khác trước. Sách trắng quốc phòng của Trung Quốc năm 2010 có đoạn viết: “Sự phát triển của lợi ích quốc gia đã đặt ra yêu cầu mới càng cao hơn đối với việc xây dựng năng lực trên biển. Bám sát chiến trường, tìm tòi con đường chiến thắng, nhanh chóng chuyển đổi mô hình năng lực chiến đấu, thực hiện huấn luyện từ biển gần chuyển sang biển xa, trở thành nhiệm vụ trọng tâm của các đơn vị hải quân”. Trong buổi công tác thị sát bộ đội hải quân ngày 9/4/2008, Hồ Cẩm Đào nói: “Hải quân trong khởi điểm mới phát triển vừa tốt vừa nhanh, nỗ lực phấn đấu để xây dựng và thực hiện hải quân nhân dân lớn mạnh nhằm thích ứng với yêu cầu sứ mệnh lịch sử quân đội Trung Quốc trong thế kỷ mới, giai đoạn mới”. Đặc biệt, xây dựng cường quốc biển là chiến lược biển hoàn toàn mới trong lịch sử Trung Quốc, lần đầu tiên được đưa vào Báo cáo chính trị tại Đại hội 18 của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Chiến lược này đã vạch ra mục tiêu phát triển hải dương của Trung Quốc cho các thế hệ lãnh đạo tiếp theo mà Tập Cận Bình hiện nay đang nỗ lực hướng tới. Báo cáo chính trị chỉ rõ: “Cần nâng cao năng lực khai thác tài nguyên biển, kiên quyết bảo vệ quyền lợi biển quốc gia, xây dựng cường quốc biển”.

Trong buổi học tập lần thứ 8 của Bộ chính trị Trung Quốc về chủ đề xây dựng cường quốc biển, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình nhấn mạnh việc xây dựng cường quốc biển có ý nghĩa trọng đại đối với việc thúc đẩy kinh tế phát triển lành mạnh, bảo vệ chủ quyền, an ninh và lợi ích phát triển, góp phần hoàn thành mục tiêu xây dựng xã hội toàn diện và giàu có, thực hiện công cuộc phục hưng vĩ đại của dân tộc Trung Hoa. Qua nhiều năm phát triển, sự nghiệp biển của Trung Quốc đã bước vào thời kỳ phát triển tốt nhất trong lịch sử. Trong quá trình tập trung phát triển sự nghiệp xã hội chủ nghĩa mang đặc sắc Trung Quốc, Trung Quốc cần phải coi trọng cả hai đại cục trong nước và quốc tế, kiên trì coi trọng trên cạn và trên biển, kiên trì đi theo con đường phát triển dựa vào biển để làm giàu mạnh đất nước trong đó con người và biển cả hài hòa với nhau. Có thể thấy, trở thành cường quốc biển theo nghĩa rộng, không chỉ bó hẹp ở cường quốc hải quân, đã trở thành mục tiêu chiến lược trên con đường mưu cầu và khẳng định vị thế cường quốc của Trung Quốc. Chiến lược này dựa trên cơ sở khá vững chắc là những tư tưởng và quan niệm về biển của Trung Quốc được kế thừa và điều chỉnh qua các thời kỳ trong lịch sử lâu đời của Trung Quốc.

RELATED ARTICLES

Tin mới