Tuesday, November 19, 2024
Trang chủSự thật Trung HoaTQ và âm mưu sử dụng trí tuệ nhân tạo để độc...

TQ và âm mưu sử dụng trí tuệ nhân tạo để độc chiếm Biển Đông

Sau thành công chinh phục không gian, trị dân trong nước, Trung Quốc sử dụng trí tuệ nhân tạo trong hàng loạt dự án đầy tham vọng, trên danh nghĩa nghiên cứu khoa học, nhưng thực chất là kiểm soát Biển Đông, nơi Bắc Kinh đòi hỏi chủ quyền phi pháp với hơn 80% diện tích.

Chính sách của Trung Quốc

Vào tháng 7/2017, Chính phủ Trung Quốc tuyên bố đã đưa ra kế hoạch tạo “bước đột phá lớn” trong công nghệ AI vào năm 2025. Chính quyền Bắc Kinh hy vọng sẽ thúc đẩy thương mại hóa AI trong các lĩnh vực khác nhau tại Trung Quốc như thành phố thông minh và khả năng ứng dụng AI vào các mục đích quân sự. Trong diễn biến khác, Viện Công nghệ Thông tin và Truyền thông Trung Quốc (9/2018) đã phát hành Sách Trắng về phát triển trí tuệ nhân tạo năm 2018. Sách Trắng đề cập tới các lĩnh vực phát triển AI của Trung Quốc, trong đó có phát triển và ứng dụng giọng nói thông minh, thị giác máy tính và phát triển các thuật toán về nhận dạng giọng nói. Hiện Trung Quốc đang có kế hoạch xây dựng khu công nghệ trị giá 13,8 tỷ nhân dân tệ (2,1 tỷ USD) để phát triển trí tuệ nhân tạo. Nó sẽ được xây dựng trong vòng 5 năm và nằm ở quận Mentougou ở ngoại ô Bắc Kinh, Trung Quốc. Khu công viên công nghệ trên sẽ có khoảng 400 doanh nghiệp và dự kiến sẽ tạo ra một giá trị sản lượng hàng năm khoảng 50 tỷ nhân dân tệ. Một trong những trọng tâm nghiên cứu, phát triển của các doanh nghiệp này là điện toán đám mây, sinh trắc học và AI.

Trung Quốc cũng đang tìm kiếm những “thiên tài” và tập trung đào tạo chuyên sâu trong lĩnh vực phát triển AI. Bắc Kinh mới đây đã tuyển 27 nam sinh và 4 nữ sinh, tất cả đều từ 18 tuổi trở xuống, đã được lựa chọn cho một chương trình 4 năm về “thí nghiệm lập trình cho hệ thống vũ khí trí tuệ nhân tạo” tại Đại học Công nghệ Bắc Kinh (BIT) từ hơn 5.000 ứng cử viên. Sau khi hoàn thành khóa học, các sinh viên sẽ được học tiếp PhD và trở thành các chuyên gia đầu ngành của Trung Quốc trong lĩnh vực phát triển vũ khí trí tuệ nhân tạo. Không những vậy, để tìm kiếm nguồn nhân tài còn đang khan hiếm ở mọi nơi, các công ty Trung Quốc đang mở các phòng thí nghiệm tại thung lũng Silicon và chi trả mức lương khủng để thu hút giới chuyên gia trên thế giới.

Căn cứ trí tuệ thông minh nhân tạo dưới đáy Biển Đông

Theo Bưu điện Hoa Nam buổi sáng, ngân sách cho dự án này lên tới 1,1 tỷ NDT, tương đương 160 triệu USD. Trung Quốc sẽ sử dụng các tàu ngầm robot để thăm dò nền biển, ghi lại các sinh vật tồn tại dưới đáy biển và tìm khoáng thạch, sau đó nó các robot trên sẽ tự động phân tích các mẫu vật và gửi kết quả về trung tâm kiểm soát trên mặt đất. Về địa điểm đặt căn cứ, giới chuyên gia Trung Quốc cho rằng chỉ có khu vực rãnh Manila gần Philippines đạt được yêu cầu đưa ra. Theo đó, rãnh này có độ sâu 5.400 m. Rãnh này cũng nằm gần bãi cạn Scarborough, vùng biển tranh chấp giữa Trung Quốc và Philippines.

Tuy nhiên, Trung Quốc triển khai kế hoạch trên sẽ gặp nhiều khó khăn và thách thức lớn. Theo đó, thách thức lớn nhất trong kế hoạch trên là tìm ra được vật liệu có khả năng chống lại áp lực nước ở độ sâu hàng nghìn mét. Vật liệu này vừa phải cứng, vững chắc, vừa phải đủ độ linh hoạt để có thể kết nối với tàu điện ngầm. Ngoài ra, đáy biển là khu vực có môi trường khắc nghiệt, áp lực cao, xói mòn, địa chất yếu và động đất có khả năng đe dọa bất cứ cấu trúc nào ở đáy biển. Rãnh Manila cũng là một trong những khu vực có nguy cơ động đất mạnh nhất thế giới. Một cuộc nghiên cứu của Viện địa chất thuộc Cơ quan Động đất Trung Quốc năm nay dự đoán một trận động đất lớn tại rãnh Manila có thể tạo ra sóng thần cao tới 4m về phía đồng bằng Châu Giang, bao gồm Hong Kong, trong vòng 3 giờ đồng hồ.

Theo giới chuyên gia, Trung Quốc tìm cách triển khai dự án trên là nhằm phục vụ âm mưu chiến lược của Bắc Kinh ở Biển Đông. Thứ nhất, căn cứ trên có khả năng thu thập thông tin về cấu tạo địa chất dưới đáy biển, môi trường dưới nước, đặc biệt là nhiệt độ và độ mặn; khiến Bắc Kinh nắm bắt được sự thay đổi về môi trường sinh thái ở các vùng biển và đưa ra những chiến lược phát triển kinh tế biển phù hợp với đặc điểm từng vùng. Thứ hai, căn cứ trên cũng hỗ trợ các hoạt động của hải quân Trung Quốc, nhất là lực lượng tàu ngầm chiến lược và tàu ngầm hạt nhân của Trung Quốc trong việc định hướng, xác định mục tiêu và theo dõi tàu chiến của các nước khác. Không những vậy, Trung Quốc có thể sự dụng các tàu ngầm AI cho các nhiệm vụ thu thập tình báo, trinh sát, đặt thủy lôi và tiến hành các cuộc tấn công cảm tử kiểu ‘kamikaze’ vào các mục tiêu có giá trị cao trên biển như tàu ngầm, tàu sân bay, tàu chiến và các giàn khoan dầu mỏ. Thứ ba, dự án này không chỉ là một phần trong kế hoạch đầy tham vọng của Trung Quốc nhằm tăng cường sức mạnh hải quân bằng công nghệ AI, nó còn nhằm các mục tiêu tuyên truyền, quảng bá sức mạnh hải quân Trung Quốc ở Biển Đông. Thứ tư, ngoài việc thực hiện nghiên cứu khoa học, theo dõi sự thay đổi môi trường và tìm kiếm các nguồn tài nguyên thiên nhiên trên biển, dự án tàu ngầm robot của Trung Quốc còn nhằm theo dõi, ngăn chặn và tấn công các lực lượng Mỹ trên các vùng biển chiến lược như Biển Đông và Tây Thái Bình Dương.

Thiết bị lặn không người lái

Sau chuyến thăm của ông Tập Cận Bình, Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc bắt đầu theo đuổi kế hoạch lập một đội tàu lặn tự hành, hay còn được gọi là “Phương tiện không người lái dưới nước” (Extra Large Underwater Unmanned Vehicles, XLUUV). Những con tàu này có khả năng làm nhiệm vụ từ theo dõi cá voi đến hoạt động chống tàu sân bay. Tất cả hoạt động nhờ vào trí tuệ nhân tạo. Có thể vượt qua hàng nghìn hải lý, tùy thuộc vào kích cỡ của đội tàu mà Trung Quốc có thể xuất hiện ở khắp nơi trong khu vực. Khi di chuyển dưới đại dương, đội tàu ngầm tự hành này sẽ có khả năng hoạt động trên phạm vi rộng lớn, từ chiến tranh điện tử đến rà mìn (mine warfare), cũng như nhiều khả năng tấn công khác.

Hiện Trung Quốc đã xây dựng cơ sở thử nghiệm lớn nhất thế giới dành cho các tàu không người lái trên mặt nước ở Chu Hải, tỉnh Quảng Đông. Dự kiến, nước này sẽ triển khai tàu ngầm AI vào đầu thập niên 2020. Có thông tin cho rằng tàu ngầm không người lái của Trung Quốc nặng 50 kg, do Đại học công nghiệp Tây Bắc hợp tác thiết kế, chế tạo. Theo giới thiệu, tàu ngầm AI của Trung Quốc sẽ tự triển khai các kế hoạch, tự xử lý nhiệm vụ được giao và trở về căn cứ riêng. Chúng có thể liên lạc với chỉ huy ở mặt đất theo định kỳ để cập nhật thông tin, nhưng hoàn toàn có khả năng hoàn thành nhiệm vụ mà không cần đến sự can thiệp của con người. Các chuyên gia nghiên cứu quân sự của Trung Quốc cũng đang phát triển một hệ thống hỗ trợ giúp các chỉ huy đưa ra những nhận định nhanh và chính xác trong tình huống chiến đấu. Theo thiết kế, tàu ngầm không người lái cỡ nhỏ rất khó bị hệ thống định vị thủy âm (sonar) dò tìm được. Chúng có thể xâm nhập cảng biển của đối phương trong tình hình đối phương không hề cảnh giác. Ngoài ra, một trong những ưu thế chính của tàu ngầm tự lái là chi phí vận hành tương đối thấp, bởi vì mọi chi phí để tạo ra môi trường cho phép con người có thể tồn tại trong tàu ngầm được loại bỏ. Điều này cho phép tàu hoạt động linh hoạt hơn. Hệ thống trí tuệ nhân tạo cho phép tàu xác định tình hình xung quanh và không cần quan tâm đến việc bảo vệ tính mạng thủy thủ bên trong tàu. Tuy nhiên, tàu ngầm AI cũng có hạn chế, đặc biệt là trong giai đoạn đầu triển khai và do các mẫu khí tài không người lái, dưới nước hiện nay hầu hết có kích thước tương đối nhỏ, hạn chế về tầm hoạt động và trọng tải tối đa. Việc triển khai và thu hồi chúng về căn cứ đòi hỏi sự điều động thêm tàu nổi hoặc tàu ngầm khác. Không những vậy, các tàu ngầm AI còn phải tự dự vào trí tuệ nhân tạo để đối phó với môi trường phức tạp trên biển. Chúng phải tự quyết định liên tục: thay đổi lộ trình và độ sâu để tránh bị phát hiện; phân biệt dân thường với các tàu quân sự; chọn cách tiếp cận tốt nhất để đến được một vị trí được chỉ định.

Chuyên gia Jonathan Hall không loại trừ khả năng một thiết bị ngầm tự động không người lái, bị mất kiểm soát, vì công nghệ trí tuệ nhân tạo vẫn còn chưa hoàn chỉnh, nên có thể bắn vào tàu hải quân hoặc tàu dân sự. Trung Quốc có thể sẽ gây ra một cuộc tấn công quy mô nhỏ kiểu như vậy nhắm vào các tàu nước ngoài, sau đó tuyên bố tai nạn xảy ra ngoài ý muốn vì “sự cố công nghệ”. Phát triển hệ thống thiết bị tự động dưới lòng biển nằm trong chiến lược “Vạn lý trường thành dưới nước” của Trung Quốc. Dự án bao gồm cả một mạng lưới máy dò, được đặt ngầm trong khu vực Biển Đông, nhằm phục vụ cho quốc phòng. Lợi ích chiến lược chính của dự án này là nhằm phát hiện tàu ngầm của Mỹ, Nga, đồng thời loại bỏ lợi thế hiện nay của những nước này trong lĩnh vực hải quân.

Hệ thống giám sát môi trường biển

Theo Tổng công ty Đóng tàu Nhà nước Trung Quốc, cơ quan phụ trách dự án, một mục tiêu khác là cung cấp cho khách hàng “một giải  pháp trọn gói về giám sát và thu thập dữ liệu môi trường dưới nước, theo dõi trực tiếp các mục tiêu trên mặt nước và dưới lòng biển, cảnh báo động đất, sóng thần và những thảm họa khác, cũng như những nghiên cứu hải dương”. Dự án có lợi cho tất cả các bên tham gia nhưng một thực tế không được nêu lên, đó là lợi ích mang tính quyết định mà lực lượng hải quân Trung Quốc có thể được hưởng. Với hệ thống giám sát trực tiếp trên khắp Biển Đông, tiềm lực chiến thuật là gần như vô hạn.

Công nghệ trí tuệ nhân tạo còn được phát triển rộng hơn nhờ khả năng dễ dàng chuyển từ ứng dụng tư nhân sang ứng dụng quân sự. Nếu thuật toán lập trình được phát triển trong lĩnh vực dân sự có khả năng dễ dàng thích ứng trong ứng dụng quân sự thì toàn bộ cộng đồng khởi nghiệp trí tuệ nhân tạo của Trung Quốc cũng có thể tham gia vào quá trình phát triển các ứng dụng bảo mật của công nghệ trí thông minh nhân tạo.

Lấy ví dụ thiết bị lặn không người lái, một thuật toán thông minh nhân tạo sẽ được sử dụng để điều khiển những con  tàu đó khi chúng đi tìm tài nguyên và những dữ liệu khoa học hữu ích khác. Được thiết kế để kết hợp với nhau, thuật toán lập trình có thể dễ dàng giúp tìm ra thêm cách sử dụng trong khuôn khổ gọi là “kỹ thuật quần thể”, có nghĩa là cho phép các thiết bị lặn không người lái hoạt động đồng bộ và thích ứng dễ dàng với mọi thay đổi trong môi trường chiến đấu. Những thuật toán như vậy đã tồn tại trong lĩnh vực tư nhân, quân đội chỉ cần thích ứng để có được khả năng sử dụng trọn vẹn trong các chiến dịch hải quân.

RELATED ARTICLES

Tin mới