Trong bài viết đăng trên tờ Nikkei của Nhật Bản hôm 3/2/2020 vừa qua, Chuyên gia Richard Heydarian từ Đại học De La Salle của Philippines, người đã có nhiều năm nghiên cứu về Biển Đông và từng viết 2 cuốn sách về chủ đề này, đã nhận định về chiến lược bành trướng của Trung Quốc ở Biển Đông hiện nay và phản ứng của các nước khu vực.
Chuyên gia Richard Heydarian cho rằng trong nhiều thập kỷ, Bắc Kinh đã tìm cách mua chuộc, lôi kéo, dọa dẫm các nước láng giềng Đông Nam Á bằng những gói hỗ trợ về kinh tế, đe dọa quân sự và ve vãn về ngoại giao, để những nước này quen với hành vi mở rộng chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông. Tuy nhiên, hiện nay các nước lớn trong khu vực đã bắt đầu khẳng định quyền chủ quyền của mình với quyết tâm cao hơn. Chỉ trong ba tháng qua, Indonesia, Malaysia và Việt Nam đã thách thức các yêu sách hàng hải mở rộng của Trung Quốc và xâm nhập cưỡng chế vào vùng biển của họ với những tác động đáng kể đến cán cân quyền lực địa chính trị.
Đối với Việt Nam
Sau một tháng dài căng thẳng tại Bãi Tư Chính (7/2019), Việt Nam đã đe dọa Trung Quốc bằng trọng tài pháp lý quốc tế. Vào tháng 11 sau đó, Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Lê Hoài Trung cảnh báo Việt Nam đang xem xét các lựa chọn để bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình và thách thức cơ sở pháp lý của các yêu sách của Bắc Kinh, nơi cắt đứt các vùng đặc quyền kinh tế của các nước láng giềng nhỏ hơn.
Đặc biệt, Hà Nội đã được khuyến khích bởi tiền lệ với phán quyết trọng tài thành công của Philippines năm 2016, đã vô hiệu hóa và từ chối “đường chín đoạn” của Trung Quốc, làm suy yếu các yêu sách của họ ở Biển Đông và được cho là “quyền lịch sử”. Trung Quốc sau đó đã phải bỏ thuật ngữ này khỏi các tuyên bố chính thức và tìm kiếm các học thuyết và tài liệu pháp lý thay thế để hỗ trợ cho các yêu sách run rẩy của mình.
Chuyên gia Richard Heydarian cho rằng, với tư cách là Chủ tịch hiện tại của ASEAN, Việt Nam là một vị trí độc nhất để ủng hộ một cuộc kiểm duyệt ngoại giao cứng rắn hơn đối với hành vi gây rối của Trung Quốc đối với các nước láng giềng nhỏ hơn. Với sự liên minh thực tế với Mỹ trong những năm gần đây, bao gồm hợp tác quốc phòng và viện trợ quân sự quy mô lớn, Việt Nam có thể công khai kêu gọi các cường quốc bên ngoài hỗ trợ các nỗ lực trong khu vực nhằm ngăn chặn sự xâm lược của Trung Quốc. Trên thực tế, Hà Nội đã đóng vai trò này gần như đúng một thập kỷ trước, khi nó khuyến khích thành công Chính quyền Obama thách thức các mối đe dọa của Trung Quốc đối với tự do hàng hải ở Biển Đông.
Đối với Malaysia
Ngay sau các mối đe dọa pháp lý của Việt Nam, Malaysia đã tiến lên phía trước với một tia từ thách thức pháp lý màu xanh đối với Trung Quốc. Quốc gia, trong lịch sử đã duy trì mối quan hệ nồng ấm với Bắc Kinh, đã đệ trình chuẩn bị vào năm 2017 cho Liên hợp quốc, tuyên bố một phần lớn hơn của thềm lục địa, cắt giảm các yêu sách của Trung Quốc đối với Quần đảo Trường Sa và các phần trung tâm của Biển Đông. Việc đệ trình, có khả năng được chuẩn bị ngay sau phán quyết trọng tài của Philippines, đã bị hoãn lại trong khi Thủ tướng Malaysia Mahathir Mohamad, người lên nắm quyền vào năm 2018 vì lý do chống lại tình cảm chống Trung Quốc, tập trung vào việc hạn chế nợ của nước này đối với các dự án cơ sở hạ tầng của Trung Quốc. Nhưng một khi ông đảm bảo các điều chỉnh và hạn chế đối với các dự án của Trung Quốc, Indonesia đã chuyển sang thách thức sự xâm nhập của Bắc Kinh vào vùng đặc quyền kinh tế và vùng biển truyền thống của nước này. Bộ trưởng Ngoại giao Malaysia Saifuddin Abdullah đã mô tả các yêu sách quá mức của Trung Quốc trong khu vực là “nực cười”.
Đối với Indonesia
Theo Chuyên gia Richard Heydarian, có lẽ phản ứng kịch tính và có ý nghĩa nhất đã đến từ Indonesia, quốc gia lớn nhất Đông Nam Á và nhà lãnh đạo được cho là. Để rời khỏi “ngoại giao thì thầm” lâu đời, tránh đối đầu cởi mở với một đối tác kinh tế lớn, Indonesia hiện đã chính thức đặt câu hỏi về tính hợp pháp của các yêu sách của Trung Quốc và củng cố vị trí quân sự của họ gần khu vực tranh chấp. Indonesia đã trải qua sự gia tăng mạnh mẽ số lượng tàu đánh cá bán quân sự và phi pháp của Trung Quốc ngoài khơi quần đảo Natuna giàu tài nguyên, chồng lấn với “đường chín đoạn” của Trung Quốc. Ban đầu, Chính phủ Indonesia áp dụng chính sách “đánh chìm tàu” mạnh mẽ, nhắm vào hàng chục tàu Trung Quốc bất hợp pháp. Theo Chuyên gia Richard Heydarian, có ba hậu quả của lập trường cứng rắn này ở Biển Đông. i) Thứ nhất, nó nhấn mạnh sự mong manh của chính sách giành chiến thắng của giới tinh hoa trong khu vực và quy mô kinh tế của nó ở đó. Các nhà lãnh đạo khu vực, ngay cả những người quá thân thiện với Trung Quốc, đã phải chịu áp lực công khai mạnh mẽ để đứng lên chống lại Bắc Kinh. Ở Việt Nam, chủ nghĩa dân tộc phổ biến, từ lâu đã chống lại sự xâm lược của Trung Quốc, đã được củng cố bằng các tranh chấp liên hoan ở Biển Đông. Trong khi đó, tại các xã hội Hồi giáo như Indonesia và Malaysia, tình cảm chống Trung Quốc đã bị làm trầm trọng thêm bởi cuộc đàn áp của người Bắc Kinh đối với người Hồi giáo Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương. Áp lực chống Trung Quốc từ dưới lên các nhà lãnh đạo khu vực sẽ chỉ tăng lên nếu Bắc Kinh tiếp tục khóa học hiện tại. ii) Thứ hai, nó báo hiệu sự kháng cự ngày càng tăng của ASEAN đối với bất kỳ hiệp ước nào sẽ làm suy yếu lợi ích chiến lược và quyền chủ quyền của các nước láng giềng. Điều này có liên quan khi đưa ra các cuộc đàm phán về Bộ quy tắc ứng xử các bên ở Biển Đông (COC) giữa Trung Quốc-ASEAN ở Biển Đông, dự kiến sẽ được kết thúc vào năm 2021. iii) Cuối cùng, chúng ta có thể sẽ thấy sự hợp tác sâu sắc hơn, mặc dù chưa công khai rõ nét, hợp tác quốc phòng giữa các quốc gia ASEAN cốt lõi và các cường quốc bên ngoài lớn như Mỹ, Nhật Bản và Ấn Độ. Mỹ và các cường quốc có cùng chí hướng đã tăng cường tập trận hải quân chung, chia sẻ thông tin tình báo và viện trợ quốc phòng cho các quốc gia trong khu vực như Việt Nam và Indonesia, đang nhanh chóng phát triển khả năng an ninh hàng hải của riêng họ. Dưới sự lãnh đạo của Mahathir, Malaysia sẽ khẳng định tính tự chủ khỏi ảnh hưởng của Trung Quốc.
Chuyên gia Richard Heydarian kết luận Trung Quốc đang dần nhận ra rằng họ không thể đơn giản mua sự im lặng của các nước láng giềng thông qua các khoản đầu tư kinh tế. Nếu Bắc Kinh không từ bỏ chủ nghĩa bành trướng hàng hải, nước này sẽ tiếp tục vấp phải sự phản kháng có xu hướng ngày càng mạnh mẽ của các nước, đồng thời đẩy các nước này xích lại gần hơn với các cường quốc bên ngoài như Mỹ, Nhật Bản, EU.