Trong năm 2020, tình hình an ninh phi truyền thông ở Biển Đông tiếp tục có nhiều diễn biến phức tạp, nhất là tình trạng an ninh hàng hải, cướp biển, buôn luận thương mại, ô nhiễm môi trường biển.
Tàu Cảnh sát biển tuần tra trên biển
Tình hình an ninh hàng hải, cướp biển
Trước đây, số lượng các vụ việc gây ra do cướp biển châu Á chiếm đến 1/3 số lượng cướp tàu trên toàn thế giới, song cướp biển châu Á tuy ít được nói đến do chỉ có tính chất nhỏ lẻ như cướp tư trang, tài sản, hàng hóa nhỏ lẻ trên tàu. Tính chất phức tạp đã tăng lên đáng kể trong giai đoạn 2013-2015, trong đó cướp dầu ở khu vực eo biển Singapore và eo Malacca gây rất nhiều thiệt hại cho nhiều chủ tàu có tàu đi ngang qua đây. Theo Cục Hàng hải quốc tế (IMB), năm 2015, Đông Nam Á xảy ra 120 vụ cướp biển tấn công, chiếm gần 30% số vụ cướp biển toàn cầu, gây thiệt hại trung bình mỗi năm ít nhất 8,4 tỉ USD. Từ năm 2016 đến năm 2017, ở khu vực châu Á đã xảy ra 95 vụ cướp biển và cướp có vũ trang chống lại tàu thuyền. Trong đó, bọn cướp đã thực hiện thành công 83 vụ. Các vụ cướp biển thường diễn ra tại một số khu vực như quần đảo Anambas, Natuna, Mangkai, Subi Besar, Pulau Jemaja, Pulau Siantan, Pulau Matak thuộc Indonesia; eo biển Malacca; khu vực ngoài khơi Tioman, Pulau Aur, Đông Sabah thuộc Malaysia; khu vực biển thuộc Miền Nam Phillippines. Giữa 2 năm 2017 và 2018, tổng số lượng các sự cố được báo cáo đã giảm từ 102 vụ xuống còn 76 vụ. Trong năm 2019, tại eo biển Malacca và eo biển Singapore đã xảy ra 30 vụ việc cướp biển và cướp có vũ trang. Trong một động thái mới nhất, Trung tâm chia sẻ thông tin thuộc Thỏa thuận hợp tác khu vực về chống cướp biển ở châu Á (ReCAAP) cho biết, từ 30/9 – 25/12/2019 đã xảy ra 12 vụ cướp biển và cướp có vũ trang đối với tàu đang hành trình tại làn đi về hướng Đông của eo biển Singapore. Vụ việc xảy ra gần nhất vào ngày 25/12, khi tàu chở dầu Stena Immortal đang hành trình tại eo biển Singapore và hướng đến cảng Singapore, thì máy trưởng của tàu phát hiện 6 kẻ xâm nhập không vũ trang trong buồng máy và đã thông báo cho thuyền trưởng. Hệ thống báo động của tàu đã được kích hoạt và những kẻ xâm nhập đã thoát ra khỏi tàu. Không có sự đối mặt giữa những kẻ xâm nhập và thuyền viên của tàu. Trước đó hai ngày, tàu chở dầu Bamzi (23/12) đi qua eo biển Singapore, trên đường từ khu neo Nipa (Indonesia) đến Qing Dao, Trung Quốc, thì máy trưởng và sỹ quan máy đi ca nhìn thấy 3 kẻ xâm nhập trong buồng máy, trong đó một tên mang theo dao. Báo động được kích hoạt và ba kẻ xâm nhập đã trốn thoát. Hai thợ máy của tàu sau đó được tìm thấy trong tình trạng bị trói.
Tình hình an ninh thương mại
Về tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại trên biển tiếp tục căng thẳng, tăng mạnh cả về số vụ, số đối tượng cũng như tang vật bị bắt giữ. Tuy chưa có nhiều bằng chứng, những nhiều chuyên gia nghiên cứu về Biển Đông cho rằng, chính lực lượng buôn lậu trên biển đang dung túng và là kênh tiêu thụ hàng hóa chủ yếu do bọn hải tặc bán lại, trong đó xăng dầu là một trong những mặt hàng được “ưa chuộng”. Số tội phạm buôn lậu xăng dầu thường câu kết với các công ty buôn lậu tại các nước, chúng sử dụng tàu, thuyền không treo cờ quốc tịch hoặc tàu cá hoán cải, được gia cố thêm téc chứa bí mật để trung chuyển dầu lậu mua từ tàu nước ngoài tại các vùng biển giáp ranh. Một phần xăng, dàu lậu được bán trực tiếp cho ngư dân tại ngư trường. Ngoài ra còn có nhiều doanh nghiệp núp dưới chiêu bài nhập khẩu xăng, dầu chính ngạch nhưng khai báo số lượng chỉ bằng 1/3 -1/5 số lượng nhập thực tế để gian lận thuế. Trong khi đó, số tội phạm buôn lậu than và khoáng sản ở khu vực Biển Đông thời gian qua cũng có nhiều diễn biến phức tạp. Thủ đoạn hoạt động của các đối tượng cũng liều lĩnh và tinh vi hơn. Các đối tượng thu mua than trôi nổi từ nhiều nguồn, dùng hồ sơ, hóa đơn, chứng từ đã qua sử dụng sửa lại ngày, tháng để quay vòng nhằm hợp thức hóa nguồn gốc. Hơn nữa, do mặt hàng than có nhiều chủng loại, khiến lực lượng chức năng rất khó xác định đâu là chất lượng thật và giá thật của lô hàng, để xác minh mất rất nhiều thời gian, vì vậy các đối tượng dễ dàng dùng hóa đơn giả để qua mặt cơ quan chức năng. Không những thế, phương tiện vận chuyển than cũng được các đối tượng đầu tư kỹ lưỡng, thường là phương tiện công suốt lớn, neo đậu ngoài khơi xa, thuê các thủy thủ có nhiều kinh nghiệm sông nước, thông thạo luồng lạch điều khiển, lợi dụng đêm tối, thời tiết xấu dùng tàu nhỏ trung chuyển than từ trong đất liền ra, việc này gây khó khăn cho các lực lượng chuyên trách trong quá trình triển khai lực lượng để vây bắt. Đối với nhóm tội phạm buôn lậu ma túy, hiện Đông Nam Á đang là khu vực sản xuất ma túy tổng hợp lớn nhất thế giới với nguồn nguyên liệu tiền chất ma túy được cung cấp từ Ấn Độ, Trung Quốc. Trong khi đó, những đường dây mua bán ma túy hình thành từ Trung Đông, Tây Phi đang chọn Đông Nam Á làm nơi tiêu thụ hoặc trung chuyển ma túy vào nước thứ ba, chúng cấu kết với tội phạm ma túy khu vực Mỹ Latinh tổ chức vận chuyển coocain sang Đông Nam Á bằng đường biển. Theo lực lượng chức năng, thường thì các vụ vận chuyển ma túy bằng đường biển có số lượng rất lớn. Hơn nữa, vận chuyển bằng đường biển khiến cho công tác đấu tranh phòng chống loại tội phạm này gặp khó khăn hơn rất nhiều so với đường bộ và đường hàng không, bởi địa bàn rộng, dễ che giấu, dễ phi tang, trong khi đó lực lượng chặn bắt của các quốc gia rất mỏng.
Tình trạng ô nhiễm môi trường biển
Cùng với việc Trung Quốc tiến hành cải tạo phi pháp các đảo đá ở Trường Sa đã khiến tình hình ô nhiễm môi trường Biển Đông trở thành một trong những thách thức hàng đầu về vấn đề an ninh phi truyền thống. Theo tính toán của các chuyên gia, việc Bắc Kinh xây dựng trái phép các đảo nhân tạo ở Trường Sa và Hoàng Sa đã tàn phá tới 160 km2 rạn san hô và phá hủy gần 60 km2 san hô vòng ở các khu vực xung quanh. Ông John McManus, Đại học Miami nhận định khoảng 10% diện tích san hô tại quần đảo Trường Sa và 8% diện tích san hô ở Hoàng Sa đã bị xóa sổ hoàn toàn do hoạt động của Trung Quốc gây ra. Theo Giáo sư Edgado Gomez (Philippines) ước tính rằng với mức độ phá hủy san hô hiện tại sẽ khiến các quốc gia ven Biển Đông phải gánh chịu thiệt hại 5,7 tỷ USD/năm, gây tác động tiêu cực xuyên biên giới.
Bên cạnh đó, hoạt động khai thác hải sản ồ ạt, bất hợp pháp, mang tính hủy diệt của ngư dân Trung Quốc ở các cùng chồng lấn trong khu vực Biển Đông đã gây ra suy giảm hệ sinh thái biển và nguy cơ tuyệt chủng của một số loài. Theo tài liệu của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) công bố tháng 9/2017, tổng lượng cá ở Biển Đông đã suy giảm khoảng 70-95% kể từ những năm 1950 và tỷ lệ đánh bắt đã giảm 66-75% trong 20 năm qua; hiện ở Biển Đông có thể chỉ còn 5% lượng cá so với thập niên 1950 và quá trình phục hồi các nguồn cá ở Biển Đông hiện nay rất thấp. Theo nghiên cứu của Đại học British Columbia (Canada) vào năm 2015 cho thấy hiện nay khoảng 20% số đàn cá trong Biển Đông đang phục hồi, 50% số đàn cá đang bị khai thác ở mức đe dọa suy thoái và 30% số đàn cá đã bị khai thác và suy thoái tới mức gần như không còn khả năng phục hồi. Nguồn hải sản không có khả năng phục hồi hoặc phục hồi chậm chủ yếu là do hoạt động cải tạo phi pháp, phá hủy môi trường sinh thái của Trung Quốc khiến các loại sinh vật mất môi trường sống, đẻ trứng và nuôi con non. Ngoài ra việc Chính phủ Trung Quốc không kiểm soát, quản lý ngư dân, để người dân khai thác quá mức, khai thác bất hợp pháp và sử dụng phương pháp đánh bắt mang tính chất hủy diệt (ngư dân đã dùng các phương tiện đánh bắt có tính hủy diệt như lưới mắt nhỏ, giã cào, điện, đèn công suất cao, thuốc nổ, chất độc xyanua… ) khiến nguồn cá và các sinh vật khác, đặc biệt là những sinh vật có giá trị kinh tế cao (rùa biển, trai biển…) không có khả năng phục hội.
Xu hướng tình hình an ninh phi truyền thống ở Biển Đông trong năm 2020
Trong năm nay, diễn biến tình hình cướp biển, buôn lậu thương mại, ô nhiễm môi trường biển… tiếp tục có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, đe dọa trực tiếp đến hòa bình, ổn định trong khu vực, cũng như hoạt động thương mại trên biển.
Tình hình an ninh hàng hải, cướp biển có dầu hiệu gia tăng, các nhóm cướp vũ trang sẽ tăng cường các hoạt động cướp biển. Trước tình trạng trên, Cục Hàng hải Việt Nam (30/12/2019) yêu cầu các Cảng vụ phổ biến đến tất cả thuyền trưởng, chủ tàu, công ty khai thác tàu về diễn biến cướp biển và yêu cầu các thuyền trưởng thực hiện nghiêm kế hoạch an ninh đã được Cục Đăng kiểm phê duyệt; đồng thời khuyến cáo các tàu biển tăng cường biện pháp bảo vệ, kế hoạch an ninh khi hành trình qua khu vực eo biển phía đông Singapore và vùng biển Sulu – Celebes và eo biển Malacca để đảm bảo an toàn cho thuyền viên và tàu. Được biết, các vụ cướp trên biển khu vực châu Á có phương thức, thủ đoạn hoạt động của bọn cướp thường là: Sử dụng từ 02 đến 04 tàu, xuồng loại nhỏ, có tốc độ cao (trên 25 hải lý/giờ) để tiếp cận, tấn công các tàu vận tải hành trình đơn lẻ trên biển; Chúng tiếp cận, leo lên và tấn công từ phía đuôi, hoặc hai bên mạn tàu; Chúng sử dụng vũ khí hạng nhẹ (súng tiểu liên, súng phóng lựu…) đe dọa, uy hiếp thuyền viên để đưa ra các yêu cầu về giảm tốc độ, hoặc dừng tàu để tiếp cận và leo lên. Khi sử dụng vũ khí, bọn cướp biển thường nhằm vào buồng lái, buồng ngủ, phòng Câu lạc bộ…; Trong mỗi vụ, chúng thường sử dụng từ 01 đến 02 tàu mẹ, tàu mẹ có thể là tàu biển, tàu thuyền buồm, tàu đánh cá. Tàu mẹ dùng để chứa hàng dự trữ, nhiên liệu và có thể vận chuyển các hàng hóa cướp được. Các xuồng nhỏ để tấn công thường được kéo theo phía đằng sau tàu mẹ; Để tấn công, leo lên tàu, bọn cướp thường sử dụng sào móc với thang dây dài và nhẹ, hoặc dây thừng để leo lên tàu. Khi đã lên được tàu, bọn chúng thường lên buồng lái để khống chế, kiểm soát hàng hải và thông tin trên tàu, yêu cầu cho tàu chạy chậm, hoặc dừng lại để cho đồng bọn tiếp tục leo lên tàu và khống chế toàn bộ thủy thủ đoàn, kiểm soát tàu, tổ chức cướp tàu, cướp hàng hóa vận chuyển trên tàu hoặc bắt cóc thuyền viên. Quá trình khống chế, kiểm soát tàu, nếu thuyền viên có hành vi chống đối, bọn biển sẵn sàng sử dụng vũ khí nóng để sát thương nhằm quyết tâm thực hiện hành vi cướp đến cùng.
Tình hình buôn lậu thương mại gia tăng, khó kiểm soát. Trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới đang có dấu hiệu suy thoái, nguồn tài nguyên khoáng sản các nước đang ngày càng cạn kiệt, giá xăng dầu chênh lệch giữa các nước… khiến hoạt động buôn lậu trên biển gia tăng về cả số lượng và mức độ. Trong đó, khu vực Biển Đông sẽ là một trong những trọng tâm được các nhóm tội phạm triệt để khai thác và hoạt động trong vùng biển này.
Tình hình ô nhiễm môi trường biển có xu hướng được cải thiện. Việc cải thiện tình hình môi trường biển chủ yếu là do Trung Quốc đã kết thúc quá trình cải tạo đảo trái phép, chuyển sang giai đoạn quân sự hóa trên các tiền đồn. Tuy nhiên, hoạt động đánh bắt cá trái phép của Trung Quốc, nhất là việc sử dụng các tàu đánh cá có trang bị thuốc nổ, xung điện hoặc lưới quét… sẽ có chiều hướng gia tăng. Hành vi trên cũng sẽ gây ảnh hưởng nhiều đến môi trường biển, nhất là việc ảnh hưởng đến quá trình cân bằng sinh thái, cũng như môi trường sống của các loài sinh vật biển.
Giải pháp khả thi
Để bảo đảm hòa bình và ổn định trong khu vực, ngăn chặn và hạn chế tác động, ảnh hưởng của vấn đề an ninh phi truyền thống ở Biển Đông thì các nước trong khu vực cần phải hợp tác chặt chẽ trong nhiều lĩnh vực. Theo đó, các nước liên quan, nhất là các nước ven Biển Đông cần tăng cường hợp tác, tuần tra song phương, đa phương trong khu vực, trong đó tập trung vào việc chia sẻ thông tin, tình hình cướp biển và cướp có vũ trang; công tác huấn luyện, diễn tập, đào tạo nâng cao trình độ cho cán bộ trực tiếp thực hiện nhiệm vụ phòng, chống cướp biển và cướp có vũ trang chống lại tàu thuyền; thiết lập và duy trì hiệu quả hoạt động của các đường dây nóng giữa lực lượng thực thi pháp luật trên biển của mỗi nước; thiết lập và tăng cường cơ chế tuần tra chung giữa lực lượng thực thi pháp luật trên biển của mỗi quốc gia ở các vùng biển giáp ranh. Mỗi quốc gia trong khu vực cũng cần chú trọng công tác tuyên truyền, phổ biến các phương thức, thủ đoạn hoạt động của bọn cướp biển và cướp có vũ trang chống lại tàu thuyền cho các doanh nghiệp và đội ngũ thuyền viên, nhất là thuyền viên các tàu vận tải. Đồng thời, có các khuyến cáo, chỉ dẫn về huấn luyện, các biện pháp phòng vệ, phương án thông tin liên lạc khẩn cấp khi bị cướp biển và cướp có vũ trang chống lại tàu thuyền tấn công…
Không những vậy, các nước cần tăng cường sức mạnh lực lượng tuần duyên, cảnh sát biển, trang bị vũ khí hiện đại như súng máy, trực thăng chiến đấu hạng nhẹ; lắp đặt hệ thống giám sát bờ biển sử dụng radar, trang bị hệ thống nhận dạng tự động, cũng như nhiều thiết bị quản lý hiện đại khác… nhằm bảo đảm lực lượng thực thi pháp luật của mỗi quốc gia có đủ năng lực kiểm soát, kịp thời phát hiện, bắt giữ, xử lý các đối tượng có hành vi cướp biển và cướp có vũ trang.
Các nước cần yêu cầu các chủ tàu trang bị hệ thống tự động nhận dạng (AIS); Hoàn thiện cơ chế phản ứng nhanh và cài đặt điểm an toàn xung quanh vùng biển Sabah, điểm nóng của tệ nạn cướp biển trong khu vực Biển Đông; hỗ trợ xây dựng, đào tạo lực lượng, diễn tập để nâng cao trình độ kỹ thuật, khả năng phối hợp chiến đấu; cần triển khai ngay kế hoạch quản lý nghề cá và bảo tồn môi trường sinh thái ở vùng biển tranh chấp để cứu vãn tài nguyên sắp cạn kiệt; tránh các hành động phá hủy môi trường biển nào như nạo vét, cải tạo đảo, hay xây dựng các cơ sở trên các rạn san hô chưa có nước nào kiểm soát.
Ngoài ra, Trung Quốc cần phải chấm dứt ngay các hoạt động phi pháp ở Biển Đông, bao gồm việc đưa binh lính ra triển khai trên các thực thể nhân tạo ở Trường Sa và nạo vét, cải tạo các đảo đá đang chiếm đóng. Bắc Kinh cũng cần triển khai các biện pháp hữu hiệu để quản lý, ngăn chặn ngư dân của họ đánh bắt tận diệt các loài hải sản ở Biển Đông. Ngoài ra, Trung Quốc phải có trách nhiệm và nghĩa vụ trong việc khôi phục môi trường sinh thái ở Biển Đông, không thể để tình trạng mình Trung Quốc phá hủy hệ sinh thái mà tất cả các nước trong khu vực phải gánh chịu hậu quả.