Tuesday, November 19, 2024
Trang chủSự thật Trung HoaNhìn lại “cuộc đấu” Mỹ - Trung xung quanh vấn đề Biển...

Nhìn lại “cuộc đấu” Mỹ – Trung xung quanh vấn đề Biển Đông mấy năm gần đây

Với tư cách là một vùng biển có giá trị cực kỳ quan trọng đối với hoạt động giao lưu thương mại quốc tế, khai thác tài nguyên kinh tế và đảm bảo huyết mạch giao thông hàng hải dân sự lẫn quân sự, Biển Đông ngày càng lọt vào tầm nhìn coi trọng và quan tâm của giới hoạch định chính sách nhiều nước trong và ngoài khu vực. Thậm chí, các chuyên gia, giới lãnh đạo nhiều nước còn coi đây là một trong những “đòn bẩy” lợi hại về địa chiến lược, bất cứ nước nào toàn quyền kiểm soát được Biển Đông, nước đó sẽ có lợi thế tạo dựng sức mạnh, uy thế và cả sự khống chế đối với các nước liên quan về kinh tế, giao thông hàng hải, quốc phòng – an ninh và đối ngoại. Bởi thế, Trung Quốc cho đến nay vẫn nuôi tham vọng biến vùng biển này thành “ao nhà” và tham vọng đó buộc Mỹ, cường quốc hàng đầu thế giới, phải can dự nhiều nhất với TQ. Trong mấy năm gần đây, “cuộc đấu” giữa hai cường quốc này xung quanh vấn đề Biển Đông ngày càng trở thành vấn đề “nóng” trong quan hệ hai nước.

Đối với Mỹ, Washington lâu nay không giấu diếm quan điểm coi Biển Đông là khu vực mà nước này “có nhiều lợi ích quốc gia”, cần phải “chi phối và khống chế” để phục vụ cho các chiến lược đối với khu vực, nhất là trong việc ngăn chặn, kiềm chế sự “trỗi dậy” của Trung Quốc. Trước các hành động xâm lấn, xây dựng và tôn tạo trái phép các đảo nhân tạo của TQ ở Biển Đông, Mỹ đã nhiều lần công khai chỉ trích các hoạt động đó làm ảnh hưởng đến tự do, an toàn hàng hải trên Biển Đông cũng như đang “gây mất an ninh ổn định” tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Mỹ cũng nhiều lần khẳng định tại các hội nghị khu vực rằng “không thể và sẽ không chấp nhận các hành vi cưỡng bức đơn phương để thay đổi hiện trạng” Biển Đông và tuyên bố: “Mỹ vẫn sẽ can dự vào khu vực vì hòa bình và sự thịnh vượng của châu Á với sự tôn trọng dành cho những quốc gia thượng tôn pháp luật quốc tế. Không quốc gia nào là một hòn đảo hay bị cô lập với thế giới, chúng ta sẽ cùng nhau đẩy lùi các thách thức an ninh”.

Đi cùng các tuyên bố mạnh mẽ trên, Mỹ đẩy mạnh thực thi chính sách can dự vào vấn đề Biển Đông, tập trung vào những hoạt động chính sau:

Thứ nhất, thúc đẩy các hoạt động tự do hàng hải và thực thi pháp luật chung ở Biển Đông trong khuôn khổ chiến lược “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở”. Đây là biện pháp chiến lược được Mỹ chú trọng để kiềm chế động thái Trung Quốc tăng cường sức mạnh trên biển và quân sự hóa Biển Đông.

Kể từ khi Donald Trump lên nắm quyền Tổng thống Mỹ (2017) đến nay, tần suất, phạm vi và cường độ hoạt động của Quân đội Mỹ ở khu vực Biển Đông tăng lên đáng kể. Theo đó, Quân đội Mỹ đã tiến hành 15 lần các hoạt động “tự do hàng hải”, chỉ riêng trong năm 2019, Mỹ đã 8 lần điều 1 hoặc 2 tàu khu trục tiến vào lãnh hải hoặc vùng nước phụ cận các đảo/đá ở quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, bãi cạn Scarborough. Ngoài ra, lực lượng tàu ngầm và không quân Mỹ cũng thường xuyên tiến hành trinh sát ở cự ly gần đối với các đảo/đá do Trung Quốc chiếm đóng trái phép. Theo thống kê chưa đầy đủ, năm 2018, máy bay B-52 mà Quân đội Mỹ triển khai ở đảo Guam đã 16 lần thực hiện nhiệm vụ quân sự bay qua Biển Đông, tăng khoảng 4 lần so với năm 2017.

Trong khuôn khổ chiến lược “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở”, Mỹ không những nâng cấp hoạt động “tự do hàng hải” ở Biển Đông thông qua việc tăng tần suất và quy mô tàu thuyền, mở rộng phạm vi hoạt động, mà còn áp dụng nhiều biện pháp đa dạng, mang tính thách thức hơn về an ninh để gia tăng sức ép với Trung Quốc. Theo đó, một mặt, các đồng minh của Mỹ như Nhật Bản, Australia, Anh… tăng cường hành động chung với Mỹ trên nền tảng hành động quân sự đơn phương hiện tại của Washington ở Biển Đông; mặt khác, Mỹ từng bước cơ chế hóa, bình thường hóa các hoạt động thực thi pháp luật của Lực lượng bảo vệ bờ biển (USCGC) của nước này ở Biển Đông, triển khai thực thi pháp luật chung trên biển với các nước ven Biển Đông như Philippines, Malaysia… Cuộc đọ sức trực diện giữa Mỹ trước Trung Quốc ở Biển Đông không có dấu hiệu ngừng lại.

Thứ hai, Mỹ đẩy nhanh xây dựng căn cứ quân sự và triển khai lực lượng ở khu vực xung quanh Biển Đông và xem đây là biện pháp chủ yếu để ứng phó với ảnh hưởng quân sự của Trung Quốc. Theo Báo cáo Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương được Mỹ công bố ngày 01/06/2019, Quân đội Mỹ sẽ triển khai hơn 2.000 máy bay, 200 tàu mặt nước và tàu ngầm, 370.000 nhân viên quân sự tại khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương; có kế hoạch mua 10 tàu khu trục trong giai đoạn 2020 – 2024 nhằm nâng cao năng lực chống tàu mặt nước, chống ngầm và tên lửa đạn đạo. Mỹ còn đề xuất mua 110 máy bay chiến đấu thế hệ thứ 4 và thứ 5, 400 tên lửa không đối không tầm trung hiện đại… Trong chiến lược trên, Mỹ coi Biển Đông và khu vực xung quanh vùng biển này là trung tâm địa lý của chiến lược “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở”, nên Quân đội Mỹ đã và đang đẩy nhanh việc triển khai lực lượng, xây dựng cơ sở hạ tầng và hoạt động quân sự với nhiều hình thức khác nhau tại khu vực này.

Thứ ba, các cuộc tập trận song phương và đa phương của Mỹ đã và đang diễn ra với tần suất nhiều hơn ở các khu vực xung quanh Biển Đông. Theo số liệu thống kê, Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương của Mỹ hàng năm chủ trì hơn 150 cuộc tập trận chung song phương và đa phương. Trong đó có các cuộc tập trận chung với các nước tại khu vực như tập trận Balikatan (Vai kề vai) giữa Mỹ và Philippines, tập trận RIMPAC, tập trận CARAT (Mỹ với các nước Malaysia, Singapore, Philippines, Indonesia…). Cuộc tập trận Malabar gần đây nhất là từ ngày 02/09 đến ngày 06/09/2019, lần đầu tiên Hải quân Mỹ và Hải quân 10 nước ASEAN đã tiến hành cuộc tập trận hàng hải chung, địa điểm tổ chức nằm bên ngoài “đường chín khúc” để tránh leo thang căng thẳng với Trung Quốc. Tuy cuộc tập trận được các bên tham gia xác định đối tượng giả định không phải là Trung Quốc, nhưng ai cũng hiểu thực chất là nhằm đối phó lại với các hành động của Trung Quốc ở Biển Đông. Do đó, trong trường hợp Trung Quốc tiếp tục có những hành động lấn tới ở Biển Đông, sẽ không có gì ngạc nhiên về việc Quân đội Mỹ sẽ gia tăng tần suất tập trận chung ngay ở Biển Đông và khu vực xung quanh Biển Đông, thậm chí có thể tiến vào vùng biển tranh chấp ở Biển Đông để triển khai tập trận chung nhằm tạo ra “tiền lệ” trước khi Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) được ký kết.

Thứ tư, ở đây cần nói thêm về nhân tố Đài Loan. Kể từ khi ông Trump lên làm Tổng thống, Mỹ luôn sử dụng triệt để “con bài Đài Loan” trong quan hệ với Trung Quốc. Ngày 20/08/2019, Mỹ công bố kế hoạch bán cho Đài Loan 66 máy bay chiến đấu F-16 thế hệ mới và các thiết bị liên quan, tổng trị giá lên đến 8 tỷ USD. Trong Báo cáo Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương được Mỹ công bố vừa qua, Mỹ không những coi Đài Loan là một trong 4 đối tác quan trọng ở khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, mà còn gọi Đài Loan với danh xưng “quốc gia”. Để tranh thủ sự ủng hộ của Mỹ đối với quan điểm “Đài Loan độc lập” và “chủ nghĩa bài Trung Quốc”, kể từ tháng 5/2016 đến nay, Đài Loan thỉnh thoảng lại “đánh tiếng” về việc sẽ cho Mỹ thuê đảo Ba Bình trên Biển Đông. Đảo Ba Bình mà Đài Loan hiện đang chiếm đóng nằm ở vị trí trung tâm của quần đảo Trường Sa, cách Đá Vành Khăn khoảng 130km, Đá Chữ Thập khoảng 170km và Đá Xu Bi 60km. Có tin, các cảng xung quanh đảo Ba Bình có thể neo đậu tàu có tải trọng 3.500 tấn, thậm chí là hàng vạn tấn, trên đảo có đường băng dành cho máy bay vận tải C-130. Hòn đảo này có đủ điều kiện cho việc cất, hạ cánh máy bay và neo đậu một số tàu thuyền quân sự của Mỹ. Trong bối cảnh cùng với việc Mỹ từng bước thúc đẩy thực hiện chiến lược “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở”, đặc biệt là đảng Dân Tiến tiếp tục cầm quyền ở Đài Loan, nếu bị Trung Quốc dồn ép, Đài Loan có khả năng sẽ dựa trên danh nghĩa “viện trợ nhân đạo” và “hợp tác quốc tế” để mở cửa cho Mỹ sử dụng đảo Ba Bình, hỗ trợ Mỹ trong việc làm giảm ưu thế địa chiến lược của Trung Quốc ở khu vực. Qua đó, giúp tăng khả năng giám sát các hoạt động của Trung Quốc tại Biển Đông, làm suy yếu ưu thế sức mạnh hàng hải đang ngày càng tăng lên của nước này. Đây rõ ràng là “con bài” nặng ký mà Mỹ chưa dùng đến.

Trước việc Mỹ gia tăng can dự vào Biển Đông như trên, Trung Quốc cũng ra sức “bày mưu, tính kế”, thi thố mọi thủ đoạn hòng “chặn ngoài, phá trong” với những chiêu thức không thua kém phần quyết liệt dưới đây.

Một là, Trung Quốc coi đàm phán xây dựng COC là thời cơ để thực hiện các bước đi tiếp theo ở Biển Đông. Hiện, Trung Quốc và ASEAN đang đàm phán để ký kết COC. Tuy nhiên, tiến trình này đang có nhiều bất đồng, vướng mắc, nhất là khi Trung Quốc đưa ra ba điều kiện: (1) Không áp dụng UNCLOS 1982 vào trong nội dung đàm phán COC; (2) Các nước ngoài khu vực muốn tập trận ở Biển Đông phải xin phép Trung Quốc; (3) Các nước có tranh chấp ở Biển Đông không được hợp tác khai thác tài nguyên với các nước bên ngoài khu vực tại các vùng biển có tranh chấp. Với ba điều kiện trên, Trung Quốc muốn hướng tới hình thành một COC trong tương lai theo ý đồ của họ nhằm tạo điều kiện để thực hiện các bước đi tiếp theo ở Biển Đông, tiến tới mục tiêu cuối cùng là “độc chiếm” Biển Đông như tham vọng cố hữu của nước này.

Hai là, tiếp tục sử dụng chiến thuật biến “không” thành “có”, kêu gọi các bên thực hiện “gác tranh chấp, cùng khai thác”, hòng biến vùng biển của nước khác thành vùng biển của Trung Quốc. Nhớ lại cách đây hơn 8 tháng, nghĩa là vào tháng 5/2019, Trung Quốc liên tục đưa tàu thăm dò và tàu bảo vệ xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế của các nước Đông Nam Á, quấy rối và cản trở các hoạt động khai thác dầu khí trên Biển Đông của các quốc gia này. Cùng với đó, Trung Quốc cố gắng tạo ra sức ép, buộc Malaysia đồng ý khai thác chung trên biển. Tiếp đó, từ đầu tháng 7 đến cuối tháng 10/2019, Trung Quốc ngang nhiên đưa tàu khảo sát địa chất Hải Dương 8 vào thăm dò và cản trở hoạt động khai thác dầu khí giữa Việt Nam với các nước trong khu vực bãi Tư Chính – khu vực hoàn toàn thuộc chủ quyền của Việt Nam, không có tranh chấp với Trung Quốc và Việt Nam đã có các hoạt động hợp tác khai thác dầu khí với các đối tác nước ngoài từ nhiều năm nay. Hành động này có nhiều mục đích, trong đó có mục đích Bắc Kinh muốn biến khu vực từ không có tranh chấp thành có tranh chấp, buộc Việt Nam cùng Trung Quốc thực hiện “gác tranh chấp, cùng khai thác”, nếu Việt Nam đồng ý thực hiện thì vô hình trung thừa nhận khu vực đó có tranh chấp. Tại Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN – Trung Quốc diễn ra ở Bangkok/Thái Lan ngày 31/07/2019, Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị cho rằng, các vụ “va chạm” trên xảy ra tại vùng biển “tranh chấp” giữa Trung Quốc và các nước, trong khi thực tế đó là những xâm phạm trắng trợn của Bắc Kinh vào Vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam và Malaysia. Bằng cách đánh tráo khái niệm như vậy, ông Vương Nghị muốn đưa đến một kết luận: Trung Quốc cũng có những quyền tương tự như Việt Nam hay Malaysia đối với các nguồn tài nguyên ở vùng biển vốn thuộc Vùng đặc quyền kinh tế của các nước đó. Thế nhưng, ông Vương Nghị không thể đưa ra căn cứ cho các tuyên bố của mình. Ngày 18/09/2019, khi được hỏi về những đụng độ gần nhất ở Biển Đông, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng nói rằng, Trung Quốc có “quyền chủ quyền và quyền tài phán với các vùng biển liên quan”, nhưng lại không chỉ ra “liên quan” nghĩa là gì?

Ba là, tiếp tục lợi dụng nguyên tắc đồng thuận của ASEAN để chia rẽ Hiệp hội này trong vấn đề Biển Đông. Như đã biết, do tính đa dạng về lợi ích quốc gia, quan hệ đối ngoại… của các nước thành viên ASEAN nên nguyên tắc đồng thuận được đưa vào Điều 20 trong Hiến chương của Hiệp hội. Nguyên tắc này đảm bảo bình đẳng chủ quyền giữa các thành viên và ngăn ngừa việc bất cứ thành viên nào bị gạt ra trong các quyết định quan trọng của ASEAN; cho phép các thành viên tham gia vào các hoạt động khu vực mà không phải hy sinh lợi ích chính trị trong nước; giúp ASEAN duy trì đoàn kết, khiến các thành viên yên tâm khi tham gia Hiệp hội. Tuy nhiên, Trung Quốc đã lợi dụng nguyên tắc này để chia rẽ sự thống nhất trong Hiệp hội, làm suy yếu khả năng hành động hiệu quả của ASEAN trong giải quyết vấn đề Biển Đông. Một số hội nghị quan trọng của ASEAN diễn ra trong năm 2012, 2016, 2017 đã không ra được tuyên bố chung liên quan đến hoạt động phi pháp của Trung Quốc tại Biển Đông. Nếu ASEAN không khắc phục được vấn đề này thì Trung Quốc sẽ tiếp tục lấn tới, chiến thuật “bẻ đũa từng chiếc” sẽ được Bắc Kinh khai thác triệt để đối với các nước ASEAN trong giải quyết vấn đề tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông.

Nhìn lại những gì mà Mỹ và Trung Quốc toan tính và hành động ở Biển Đông trong mấy năm gần đây cho thấy, cuộc đấu Mỹ – Trung không hẳn chỉ là sự tranh giành quyền làm chủ vùng biển giàu có và đắc địa này mà cái chính và sâu xa hơn là sự tranh giành quyền kiểm soát và làm chủ châu Á – Thái Bình Dương. Rộng hơn là sự tranh giành vị thế số 1 thế giới trong tương lai. Vì thế, dù muốn hay không, Biển Đông vẫn luôn là “điểm nóng” trên bàn cờ tranh chấp Mỹ – Trung. Trong bối cảnh cả hai cường quốc đều chưa đủ điều kiện “thâu tóm” hoàn toàn Biển Đông để phục vụ ý đồ, mục đích chiến lược của họ thì “cuộc đấu” Mỹ – Trung trên vùng biển này vẫn chưa đến hồi kết. Biển Đông có lẽ sẽ còn “dậy sóng”, cục diện an ninh khu vực có lẽ vẫn còn ảm đạm.

RELATED ARTICLES

Tin mới