Tuesday, November 26, 2024
Trang chủSự thật Trung HoaBị cộng đồng quốc tế lên án, chỉ trích thậm tệ, TQ...

Bị cộng đồng quốc tế lên án, chỉ trích thậm tệ, TQ liệu có rút khỏi UNCLOS 1982

Kể từ khi Trung Quốc sử dụng vũ lực chiếm đóng trái phép quần đảo Hoàng Sa và một phần quần đảo Trường Sa của Việt Nam, đến việc Bắc Kinh liên tục tiến hành các hoạt động quân sự hóa trên các thực thể chiếm đóng trái phép đã bị cộng đồng quốc tế lên án, chỉ trích mạnh mẽ vì vi phạm Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS). Vấn đề đặt ra hiện nay là liệu Trung Quốc có cảm thấy xấu hổ và rút khỏi UNCLOS 1982 để tránh bị chỉ trích, lên án hay không.

UNCLOS là một bộ các quy định về sử dụng các đại dương của thế giới. Công ước đã được ký kết năm 1982 để thay thế cho 4 hiệp ước năm 1958 đã hết hạn. UNCLOS có hiệu lực từ năm 1994 và cho đến tháng 10 năm 2014, có 167 quốc gia và Cộng đồng châu Âu đã tham gia Công ước này. Trung Quốc hiện là một trong số 167 nước thành viên tham gia UNCLOS. Công ước quy định quyền và trách nhiệm của các quốc gia trong việc sử dụng biển, thiết lập các hướng dẫn rõ ràng cho các hoạt động kinh doanh, bảo vệ môi trường và cải thiện quản lý các tài nguyên thiên nhiên đại dương. Trong khi Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc nhận được các công cụ phê chuẩn và gia nhập và Liên Hiệp Quốc quy định ủng hộ các cuộc họp của các quốc gia là thành viên của Công ước thì Liên Hiệp Quốc không có vai trò hoạt động trong việc thi hành Công ước này. Tuy nhiên các tổ chức liên chính phủ tự trị như: Tổ chức Hàng hải Quốc tế, Ủy ban Cá voi Quốc tế và Cơ quan quản lý Đáy biển Quốc tế được Công ước này thành lập lại có một vai trò trong việc thực thi Công ước.

Trung Quốc bị chỉ trích

Mặc dù đã phê chuẩn UNCLOS từ năm 1996, song Trung Quốc đã có những hành động vi phạm và không thực hiện các quy định của UNCLOS. Những động thái gần đây của Trung Quốc ở Biển Đông bị các học giả quốc tế lên án mạnh mẽ. Ông Carl Thayer, Giáo sư danh dự – Học viện Quốc phòng Australia, cho rằng những hành động vừa qua của Trung Quốc ở Biển Đông là vi phạm luật pháp quốc tế có chủ đích. Trung Quốc không hề có căn cứ luật pháp cho hành động của họ. Nói cách khác, Bắc Kinh tiếp tục tuyên bố chủ quyền một cách vô cớ đối với các đảo và vùng nước trên Biển Đông, phớt lờ các phán quyết của tòa án quốc tế UNCLOS 1982. Theo Giáo sư Carl Thayer, các hành động của Trung Quốc trong các năm qua cho thấy Bắc Kinh có hai mục tiêu chính. Mục tiêu đầu tiên là nhằm thiết lập bá quyền thông qua phát triển các nguồn lực trên biển (bao gồm dầu mỏ và khí đốt) tại vùng biển trong khu vực “đường 9 đoạn”. Vì thế, Trung Quốc ngăn cản các hoạt động khai thác dầu của các quốc gia ven biển và tạo sức ép buộc các nước này phải tham gia các dự án khai thác chung với Trung Quốc. Mục tiêu thứ hai của quốc gia này là loại bỏ sự tham gia của các cường quốc bên ngoài trong việc phát triển nguồn lực biển tại Biển Đông. Điều này được thể hiện rõ khi Trung Quốc đề nghị hợp tác kinh tế biển cần được tiến hành với Trung Quốc và quốc gia ven biển mà “không được tiến hành thông qua hợp tác với các công ty thuộc các quốc gia bên ngoài khu vực”.

Trong khi đó, Giám đốc phụ trách các vấn đề Đông Á và Thái Bình dương tại tập đoàn tư vấn Albright Stonebridge, ông Anthony Nelson, cho rằng việc Trung Quốc khảo sát địa chất ở khu vực Biển Đông mà nước này không có chủ quyền đã vi phạm Công ước Liên hợp quốc về luật biển 1982; nhấn mạnh đây rõ ràng là một sự vi phạm Công ước Liên hợp quốc về luật biển và phán quyết của Tòa án thường trực quốc tế năm 2016 liên quan tới vụ kiện của Philippine. Trung Quốc đã vi phạm cả hai văn bản này nhằm tuyên bố chủ quyền đối với các nguồn tài nguyên trong khu vực cũng như tìm cách ngăn cản các nước khác được sử dụng các nguồn tài nguyên này. Cùng quan điểm trên, Stein Tonnesson, Giáo sư nghiên cứu tại Viện nghiên cứu hòa bình Oslo, Nauy cho biết, theo luật biển, Trung Quốc không có quyền được khai thác tài nguyên ở vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các nước khác. Trung Quốc đang tìm cách thực hiện “đường Lưỡi Bò” nhằm phục vụ phát triển bất chấp luật pháp quốc tế. Lần này Trung Quốc không khoan dầu mà tiến hành khảo sát diện rộng ở Biển Đông. Trung Quốc cũng đồng thời ngăn cản các nước khác tiến hành khảo sát trong khu vực thềm lục địa của các nước này.

Giận quá mất không?

Trong quan hệ quốc tế và luật pháp quốc tế thì việc tham gia ký kết các công ước quốc tế là tự nguyện và chấm dứt hay rút khỏi UNCLOS cũng thuộc về quyền của Trung Quốc. Về mặt pháp luật mà nói thì không ai có thể ràng buộc, áp đặt không cho Trung Quốc rút khỏi UNCLOS. Tuy nhiên trong quan hệ quốc tế thì hiệu lực của luật pháp quốc tế nó thể hiện sự lợi ích của các quốc gia đan xen và phụ thuộc lẫn nhau trên nhiều lĩnh vực. Không những vậy, Điều 317 cho phép các quốc gia từ bỏ UNCLOS bằng cách thông báo bằng văn bản gửi cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc. Nhưng để từ bỏ một Điều ước mất 9 năm để đàm phán, có 320 điều khoản và chín phụ lục bao trùm nhiều vấn đề rộng lớn, với 167 quốc gia thành viên và được coi là “bản hiến pháp” của đại dương không thể là một quyết định sáng suốt cho Trung Quốc, vì:

Đầu tiên, từ bỏ UNCLOS sẽ không giúp Trung Quốc thoát khỏi nghĩa vụ tuân theo phán quyết của Tòa trọng tài. Điều 317 của UNCLOS quy định rõ ràng rằng việc từ bỏ không ảnh hưởng đến các quyền, nghĩa vụ hay các địa vị pháp lý của quốc gia này bắt nguồn từ việc áp dụng Công ước, trước khi Công ước không còn hiệu lực đối với quốc gia đó.

Thứ hai, từ bỏ UNCLOS không hoàn toàn bảo vệ Trung Quốc chống lại các vụ kiện tương tự trong tương lai có thể được đưa ra bởi Việt Nam, Indonesia hoặc Malaysia ở Biển Đông hay Nhật Bản ở Biển Hoa Đông, theo như lập luận của Talmon. Theo Điều 317, việc từ bỏ UNCLOS chỉ có hiệu lực một năm sau khi có thông báo bằng văn bản. Trong khoảng thời gian một năm này sẽ không có gì ngăn chặn các nước này đưa ra các vụ kiện chống lại Trung Quốc.

Thứ ba, Trung Quốc đã tham gia rất sâu vào hệ thống UNCLOS. Một minh chứng là Trung Quốc đã đầu tư mạnh vào chế độ đáy biển sâu được thiết lập dựa trên Phần XI của UNCLOS, trong đó cho phép các quốc gia thăm dò và khai thác tài nguyên dưới đáy biển sâu ở những khu vực nằm ngoài thẩm quyền quốc gia. Trên thực tế, Trung Quốc là nhà đầu tư tiên phong trong thăm dò đáy biển sâu, đã tích cực tham gia vào việc thăm dò đáy biển sâu từ những năm 1970. Bên cạnh đó, sự tham gia của Trung Quốc vào chế độ đáy biển sâu được thúc đẩy không chỉ bởi khả năng thu lời từ khai thác khoáng sản mà còn bởi các lý do chiến lược, bao gồm việc đảm bảo một nguồn cung lâu dài cho nguồn kim loại quý hiếm để thay thế cho nguồn khoáng chất trên mặt đất và việc nâng cao năng lực khoa học và công nghệ biển của Trung Quốc. Nếu Trung Quốc từ bỏ UNCLOS, nước này sẽ phải từ bỏ việc thăm dò hiện tại của mình và làm lãng phí thời gian, nguồn lực và chi phí đáng kể. Cách duy nhất mà Trung Quốc có thể hưởng lợi từ chế độ đáy biển sâu khi không phải là một bên tham gia chế độ này là đầu tư chung với nhà thầu khác và nhận tài trợ từ một quốc gia khác, nhưng đây là một quá trình rất phức tạp, tốn nhiều thời gian và không được đảm bảo.

Trung Quốc cũng đã tận dụng các quyền lợi của mình được quy định trong Điều 76 Phần VI của UNCLOS để yêu sách thềm lục địa vượt quá 200 hải lý nhằm khai thác các nguồn tài nguyên dầu và khí đốt ở đó. Điều 76 cho phép các quốc gia có thềm lục địa đáp ứng được các tiêu chí khoa học nhất định (liên quan đến địa chất và địa mạo của đáy biển) đệ trình lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa (CLCS) các thông tin để chứng minh phần thềm lục địa mở rộng theo như đề xuất của mình. CLCS có quyền đưa ra các khuyến nghị cuối cùng và ràng buộc về việc thiết lập giới hạn ngoài của thềm lục địa. Ngày 14/12/2012, sau khi sử dụng nguồn lực đáng kể để thu thập dữ liệu trên đáy biển trong khoảng thời gian mười năm, Trung Quốc đã đệ trình lên CLCS ranh giới ngoài của thềm lục địa ở Biển Hoa Đông. Đệ trình của Trung Quốc chồng lấn với vùng đặc quyền kinh tế của Nhật Bản ở Biển Hoa Đông và không ngạc nhiên khi nó gây ra sự phản đối từ Nhật Bản.

Trung Quốc từ bỏ UNCLOS có thể làm tổn hại yêu sách thềm lục địa mở rộng của mình mặc dù CLCS chưa xem xét đệ trình của Trung Quốc. Sự thật là Trung Quốc vẫn có quyền hưởng thềm lục địa vượt quá 200 hải lý theo luật tập quán quốc tế. Tuy nhiên, vẫn chưa rõ là liệu những tiêu chí khoa học sử dụng để thiết lập ranh giới ngoài theo quy định của Điều 76 UNCLOS có đạt tới điều kiện của luật tập quán quốc tế hay không. Hơn nữa, lợi ích chính của việc đệ trình lên CLCS là làm tăng tính hợp pháp của yêu sách thềm lục địa mở rộng của một quốc gia so với quốc gia khác và mang lại sự chắc chắn cần thiết trước khi khai thác dầu khí. Trong phán quyết năm 2012 của Tòa án Quốc tế về Luật Biển (ITLOS) về vụ việc giữa Bangladesh và Myanmar, việc cả hai bên đệ trình lên CLCS để chứng minh yêu sách thềm lục địa mở rộng có tầm quan trọng to lớn mặc dù CLCS vẫn chưa đưa ra khuyến nghị cuối cùng. Tương tự như vậy, trong phán quyết năm 2012 của ICJ về vụ việc giữa Nicaragua và Columbia, việc Nicaragua không đệ trình lên CLCS khiến ICJ không coi trọng yêu sách thềm lục địa mở rộng của Nicaragua. Nếu Trung Quốc từ bỏ UNCLOS, yêu sách thềm lục địa mở rộng của nước này sẽ phải chịu những thay đổi bất thường và sự bất ổn của luật tập quán quốc tế, điều này có thể ảnh hưởng đến vị thế của Trung Quốc so với Nhật Bản ở Biển Hoa Đông.

Thứ tư, việc Trung Quốc từ bỏ UNCLOS sẽ làm suy yếu niềm tin vốn đã mong manh trong cam kết của Trung Quốc về “sự trỗi dậy hòa bình” với tư cách là một siêu cường toàn cầu. UNCLOS thiết lập nền một số kỳ vọng cơ bản về cách hành xử của các quốc gia trên các đại dương và từ đó cung cấp một ngôn ngữ chung thông qua đó các bên yêu sách, ngay cả Trung Quốc, truyền đạt các quan điểm và yêu sách của mình. Khi căng thẳng ở Biển Đông leo thang hàng ngày thì việc Trung Quốc từ bỏ UNCLOS có thể làm suy giảm lòng tin của các quốc gia trong khu vực. Điều này do đó sẽ làm hỏng mọi nỗ lực của Trung Quốc trong việc theo đuổi lựa chọn theo mong muốn của mình, đó là tìm ra một giải pháp trên cơ sở thương lượng cho tranh chấp Biển Đông.

Phương án Trung Quốc không tuân thủ phán quyết cuối cùng của Toà Trọng tài chắc chắn sẽ gây tổn hại đến vị thế của Trung Quốc với tư cách là một thành viên tuân thủ pháp luật của cộng đồng quốc tế. Nếu thêm vào đó mà từ bỏ một chế độ pháp lý lâu dài và được chấp nhận rộng rãi như UNCLOS có thể sẽ gây ra những hệ quả sâu rộng, đi ngược lại lợi ích quốc gia lâu dài của Trung Quốc. Việc Mỹ không phê chuẩn UNCLOS còn được dung thứ bởi vì Mỹ luôn tuân thủ theo cơ chế UNCLOS. Tuy nhiên, việc Trung Quốc từ bỏ UNCLOS sau khi tòa án kết luận hành động của Trung Quốc ở Biển Đông là trái với UNCLOS sẽ không được chấp nhận theo cách tương tự. Có rất nhiều hướng hành động mà Trung Quốc có thể thực hiện sau khi phán quyết của Toà Trọng tài được công bố. Tuy nhiên, từ bỏ UNCLOS không nên là một trong số đó.

Nhìn chung, Công ước được thông qua là một thành công lớn của thế giới, đồng thời đây cũng là chuẩn mực về Luật Biển áp dụng cho sân chơi chung toàn cầu. Do đó, tuân thủ Công ước Luật Biển năm 1982 là phải thực hiện đúng và đầy đủ quyền và nghĩa vụ được quy định trong Công ước này. Bất cứ hành động đơn phương nào vi phạm vào Công ước Luật Biển 1982 cũng khiến tình hình thêm phức tạp, đồng thời quốc gia nào không tôn trọng quy định về quyền và nghĩa vụ ghi trong Công ước cũng có nghĩa là tự tách mình ra khỏi sân chơi chung của cộng đồng quốc tế. Bên cạnh đó, vấn đề tại Biển Đông hiện nay không còn là vấn đề song phương giữa Việt Nam và Trung Quốc, mà nó đã trở thành vấn đề của cả khu vực, thậm chí có ảnh hưởng đến toàn thế giới bởi luật pháp quốc tế đang bị vi phạm. Các quốc gia, các tổ chức chính trị xã hội trên thế giới cần tỏ rõ lập trường phản đối trước hành động thiếu tôn trọng luật pháp quốc tế của Trung Quốc, lên tiếng yêu cầu Trung Quốc tuân thủ nghiêm ngặt những quy định được nêu rõ trong Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982.

RELATED ARTICLES

Tin mới