Để bảo vệ hòa bình, ổn định trong khu vực, các nước cần tuân thủ các quy định luật pháp quốc tế, thúc đẩy xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC), Trung Quốc cần tôn trọng chủ quyền của các nước trong khu vực, chấm dứt ngay lập tức các hoạt động phi pháp trên Biển Đông.
Tuân thủ luật pháp quốc tế
Trước hết, các bên liên quan tranh chấp cần tuân thủ các nguyên tắc nêu trong Hiến chương Liên hợp quốc, UNCLOS cùng các văn kiện, tuyên bố khác trong quan hệ giữa các quốc gia; tuân thủ nguyên tắc không sử dụng vũ lực, giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, thông qua đàm phán giữa các bên trực tiếp liên quan, phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS; kiềm chế trong việc thực hiện các hành vi có thể gây phức tạp hoặc gia tăng tranh chấp và ảnh hưởng đến hòa bình ổn định, kể cả việc không đưa người đến ở trên những đảo, đá, bãi ngầm chưa có người ở.
Thứ hai, các bên liên quan cần đẩy mạnh các biện pháp xây dựng lòng tin, ngoại giao phòng ngừa thông qua các hoạt động chung, như: nghiên cứu đại dương, hợp tác nghề cá, bảo vệ môi trường, tìm kiếm cứu nạn, cứu hộ trên biển, khắc phục hậu quả thiên tai, phòng, chống cướp biển, chống khủng bố, tuần tra chung, tập trận chung; nghiêm cấm các hành động làm gia tăng xung đột, tranh chấp ở Biển Đông. Ngoài ra, tranh chấp Biển Đông là vấn đề lâu dài, phức tạp, các bên liên quan không chủ quan, nóng vội trong đàm phán phân định biển để có thể tận dụng hết mọi khả năng cũng như cơ hội mà mình có được.
Thứ ba, cần thúc đẩy xây dựng COC: Xây dựng COC là việc làm cấp thiết, đem lại lợi ích không chỉ cho ASEAN và Trung Quốc mà cho tất cả các nước ở trong và ngoài khu vực. Tuy COC không thể là phương tiện để giải quyết các tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ hay phân định ranh giới biển ở Biển Đông, nhưng COC sẽ tiếp tục là một công cụ xây dựng lòng tin nhằm tạo môi trường hòa bình, ổn định, tin cậy lẫn nhau và khuyến khích hợp tác sử dụng và quản lý Biển Đông một cách hòa bình, tối ưu trên cơ sở tuân thủ luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS; các biện pháp thực hiện trong khuôn khổ COC sẽ không gây phương hại đến quá trình giải quyết các tranh chấp về lãnh thổ và vùng biển. Các bên tham gia ký kết COC phải là toàn bộ thành viên của ASEAN và Trung Quốc, có thể xem xét việc tham gia của các quốc gia có lợi ích liên quan và COC phải là văn bản pháp lý tạo khuôn mẫu cho quan hệ hợp tác giữa các bên liên quan trong bối cảnh ở Biển Đông đang tồn tại nhiều tranh chấp do lịch sử để lại và nhu cầu sử dụng biển của các quốc gia trong khu vực và quốc tế đang tăng lên; phát huy được vai trò chủ đạo của ASEAN trong vấn đề an ninh trên Biển Đông. Nội dung của COC và việc triển khai thực hiện COC phải tuân thủ nguyên tắc của UNCLOS, Hiệp ước thân thiện và hợp tác giữa các quốc gia Đông Nam Á (TAC), SEANWFZ, 5 nguyên tắc cùng chung sống hòa bình, kế thừa các quy định trong DOC và Quy tắc hướng dẫn thực hiện DOC, các nguyên tắc phổ biến của luật quốc tế đã được thừa nhận; phải thiết lập các nguyên tắc chung về việc không sử dụng bạo lực, tránh đe dọa, ngăn ngừa xung đột, đồng thời giúp giải quyết những va chạm xung quanh việc khai thác và đánh bắt trên biển, đảm bảo an toàn trên biển. Phạm vi áp dụng của COC phải được xác định rõ bao gồm tất cả các đảo và vùng nước bên ngoài ranh giới 200 hải lý tính từ đường cơ sở, lãnh hải của các quốc gia ven biển và các đảo ở Biển Đông. Cần phân định rõ khu vực tranh chấp và không tranh chấp, xác định rõ những hoạt động được phép và không được phép thực hiện tại khu vực tranh chấp; đặc biệt là tôn trọng vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của quốc gia ven biển, quyền tự do và an ninh hàng hải, an ninh hàng không tại Biển Đông phù hợp với quy định của UNCLOS.
Thứ tư, các bên liên quan cần thường xuyên tổ chức các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc giữa lãnh đạo cấp cao, tăng cường mối quan hệ và hiểu biết lẫn nhau để có thể thông cảm và tạo điều kiện thuận lợi cùng nhau đi đến thống nhất chung; cần thỏa thuận các điều khoản là chế tài ràng buộc nghĩa vụ pháp lý của các bên tham gia ký kết nhằm giúp các điều ước đó thực hiện và có ý nghĩa cũng như giá trị thật sự trên thực tế.
Thứ sáu, Trung Quốc cần từ bỏ chủ trương vô lý và chấm dứt các hoạt động làm thay đổi hiện trạng ở Biển Đông; thực hiện nghiêm túc các quy định của luật pháp quốc tế cũng như các tuyên bố, hiệp định ký kết với các nước liên quan. Trong đó, Trung Quốc phải từ bỏ ngay chủ trương về việc chỉ tiến hành đàm phán song phương trực tiếp với từng nước liên quan; Trung Quốc phải thừa nhận quần đảo Hoàng Sa là của Việt Nam, Trung Quốc đã tiến hành chiếm đóng phi pháp và Trung Quốc phải tiến hành đàm phán với Việt Nam để giải quyết tranh chấp.
Thứ bảy, các nước ASEAN cần đoàn kết, thống nhất trong nội bộ khối trước khi tiến hành đàm phán với Trung Quốc để có lập trường thống nhất, đủ nặng buộc Trung Quốc phải tuân thủ các hiệp định, tuyên bố đã ký kết với ASEAN, trong đó có DOC và TAC; nhanh chóng thúc đẩy việc đàm phán và ký kết COC mang tính ràng buộc pháp lý nhằm góp phần giải quyết tranh chấp ở Biển Đông.
Thứ tám, các nước lớn có lợi ích ở Biển Đông cần tích cực can thiệp sâu hơn vào tranh chấp Biển Đông, có các biện pháp cụ thể kiềm chế các hoạt động phi pháp của Trung Quốc nhằm làm thay đổi nguyên trạng ở Trường Sa và buộc Trung Quốc phải tuân thủ các quy định của luật pháp quốc tế.
Giải pháp đối với Việt Nam
Giới chuyên gia nhận định, để bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ ở Biển Đông, Việt Nam cần tiếp tục khẳng định chủ quyền của đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Việc tiếp tục khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa trước hết, trên hết và chủ yếu là sự thể hiện thông qua vai trò, hành động cụ thể của Nhà nước và hoạt động quản lý nhà nước đối với vùng lãnh thổ đặc biệt quan trọng này. Theo quy định tại Điều 121 của Công ước Luật biển của Liên Hiệp Quốc (UNCLOS) năm 1982 về quy chế pháp lý của đảo, quần đảo có vùng biển riêng, việc quản lý nhà nước đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa không chỉ được hiểu là quản lý phần đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam mà còn phải quản lý các vùng nước xung quanh quần đảo này.
Thứ hai, Việt Nam cần rà soát, bổ sung, hoàn thiện các thể chế pháp lý về quản lý nhà nước đặc thù liên quan đến quần đảo Hoàng Sa. Do cơ chế quản lý về biển, đảo theo ngành, lĩnh vực trong điều kiện hệ thống chính sách, pháp luật về biển, đảo của nước ta còn thiếu đồng bộ và chồng chéo nên hiệu lực thi hành pháp luật yếu, tổ chức triển khai thiếu phối hợp giữa các ngành, các cấp, kể cả việc quản lý nhà nước đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Do vậy, cần khẩn trương rà soát, xây dựng, ban hành các thể chế đặc thù, điều chỉnh riêng đối với các vấn đề liên quan đến các hoạt động quản lý nhà nước và hoạt động đấu tranh bảo vệ chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, như: Quản lý, khai thác, sử dụng, phát huy tài nguyên biển, nhất là khai thác khoáng sản, dầu khí, thủy sản; các hoạt động vận tải biển, hàng hải, hoạt động du lịch, nghiên cứu khoa học biển…; Các hoạt động tự quản nhằm bảo vệ ngư dân, hoạt động bán vũ trang, bảo vệ trật tự an toàn, tự do hàng hải và bảo vệ quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam; Các thể chế kêu gọi hợp tác quốc tế về kinh tế, quốc phòng an ninh, ngăn ngừa các nguy cơ cướp biển, xâm hại môi trường; hoạt động cứu hộ cứu nạn, cứu trợ nhân đạo và các hiểm họa phi truyền thống khác.
Thứ ba, đẩy mạnh tuyên truyền chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Biên soạn giáo trình thống nhất, đưa nội dung cơ bản về chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa vào sách giáo khoa và chương trình giảng dạy ở các cấp, bậc học. Đồng thời, biên soạn tài liệu phổ biến những kiến thức cơ bản về lịch sử chủ quyền, thực trạng chủ quyền, chủ trương, giải pháp đấu tranh bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông để tuyên truyền rộng rãi trong các tầng lớp nhân dân.
Thứ tư, đẩy mạnh hoạt động khai thác, phát huy tiềm năng kinh tế biển, hỗ trợ và bảo vệ ngư dân bám biển gắn với bảo vệ chủ quyền quốc gia trên Biển Đông.
Thứ năm, tiếp tục hoàn thiện các luận cứ khoa học, chuẩn bị nguồn lực trong vấn đề giải quyết tranh chấp trên Biển Đông liên quan đến quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa bằng các giải pháp pháp lý. Giải pháp pháp lý, trực tiếp là việc lựa chọn Tòa án quốc tế về Luật biển là phương thức giải quyết tranh chấp bắt buộc, vừa là quyền và cũng là nghĩa vụ của các quốc gia thành viên UNCLOS 1982. Theo đó, cần khẩn trương chuẩn bị nguồn lực, bao gồm cả nhân lực chuyên gia, tài liệu, nguồn lực vật chất khác, kinh nghiệm và các mối liên hệ với tổ chức quốc tế liên quan để chuẩn bị hành trang đầy đủ, tối ưu cho việc sẵn sàng lựa chọn giải pháp pháp lý trong tương lai. Có chính sách thu hút, đào tạo, cử tuyển nhân tài trên lĩnh vực luật quốc tế, luật biển để tham gia vào chương trình đào tạo chuyên sâu, các diễn đàn học thuật, các diễn đàn tranh tụng pháp lý quốc tế, tăng cường chính sách hỗ trợ các hoạt động nghiên cứu trong và ngoài nước về các lĩnh vực liên quan đến biển, trước hết là luật biển và quan hệ quốc tế để chuẩn bị tốt nguồn nhân lực cho quốc gia. Bên cạnh đó, Việt Nam cần tăng cường các hoạt động bổ trợ cho các giải pháp pháp lý như giao lưu, trao đổi học thuật về Biển Đông. Tập trung đầu tư nguồn lực để tạo dựng một diễn đàn học thuật có uy tín và mang tầm vóc khu vực, quốc tế, có sức hút mạnh mẽ đối với giới học thuật và chính khách quốc tế về Biển Đông để thúc đẩy các nỗ lực giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, thông qua đối thoại, đàm phán, thương lượng và thông qua Tòa án quốc tế. Đồng thời, trên cơ sở diễn đàn này, chủ động và nỗ lực thu hút các quốc gia có tranh chấp, các cường quốc có lợi ích trên biển và các đối tác đối thoại tiến đến một định chế ứng xử trên Biển Đông nhằm thiết chế hóa, điều chỉnh quan hệ và hành vi các bên trên Biển Đông phù hợp với chuẩn mực quốc tế.
Thứ sáu, tăng cường năng lực các lực lượng hỗ trợ, thực thi pháp luật và dân quân tự vệ trên vùng biển Hoàng Sa. Từ kinh nghiệm đấu tranh chống Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 và tàu khảo sát Hải Dương 8 trong vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam, Việt Nam cần đầu tư trang bị phương tiện, củng cố lực lượng thực thi pháp luật trên biển để duy trì thường xuyên các hoạt động bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán trên biển, bảo vệ ngư dân, duy trì trật tự pháp luật trên biển, bảo vệ các tổ chức, cá nhân hoạt động hợp pháp, như hoạt động vận tải biển, thăm dò, khai thác dầu khí, điều tra nghiên cứu khoa học biển.