Chủ trương nhất quán của Việt Nam là giải quyết các tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ cũng như các bất đồng khác liên quan đến Biển Đông thông qua thương lượng hòa bình trên tinh thần tôn trọng pháp luật quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Trong khi nỗ lực thúc đẩy đàm phán để tìm giải pháp cơ bản và lâu dài, các bên liên quan cần duy trì ổn định trên cơ sở giữ nguyên trạng không có hành động làm phức tạp thêm tình hình, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực.
Âm mưu của Trung Quốc
Để thực hiện âm mưu độc chiếm Biển Đông, ngày 7/5/2009, Trung Quốc gửi Công hàm tới Tổng Thư ký Liên Hợp quốc và kèm theo một tấm bản đồ có vẽ 9 đoạn đứt khúc (còn gọi là “đường chữ U” hay “đường lưỡi bò”) thể hiện yêu sách bao chiếm gần như toàn bộ Biển Đông. Trung Quốc đòi hỏi cộng đồng quốc tế thừa nhận “vùng biển lịch sử” của họ được bao chiếm bởi “đường lưỡi bò” với 80% diện tích của Biển Đông, được vẽ sát vào bờ của các quốc gia ven Biển Đông như Việt Nam, Indonesia, Malaysia, Bruney, Philippines.
Đường yêu sách này ban đầu có 11 đoạn, do chính quyền Trung Quốc (Quốc dân Đảng) vẽ ra vào năm 1947 và sau đó được Nhà nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tiếp tục sử dụng nhưng có sửa đổi (bỏ bớt hai đoạn trong vịnh Bắc Bộ nên chỉ còn lại 9 đoạn). Với Công hàm ngày 7/5/2009 kèm theo bản đồ “đường lưỡi bò”, có vẻ như Trung Quốc đòi hỏi cộng đồng quốc tế phải thừa nhận tính chất lịch sử của “đường lưỡi bò” và mặc nhiên coi Biển Đông là vùng biển lịch sử của Trung Quốc. Về lâu dài, sự nhập nhằng này sẽ khiến “đường lưỡi bò” được ngộ nhận là đường biên giới trên biển của Trung Quốc. Trung Quốc cũng khéo léo kết hợp đường này với các khái niệm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Luật Biển quốc tế hiện đại bằng tuyên bố Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi với các vùng nước phụ cận của quần đảo Trường Sa. Như vậy, toàn bộ Biển Đông sẽ trở thành “ao nhà” của Trung Quốc.
Đứng trên phương diện pháp lý quốc tế, yêu sách “đường lưỡi bò” của Trung Quốc thiếu cả hai điều kiện: Phải thực thi chủ quyền thật sự liên tục, hòa bình và lâu dài; Phải có sự chấp nhận công khai hoặc im lặng không phản đối của các quốc gia khác, đặc biệt là các quốc gia láng giềng và có lợi ích liên quan. Do vậy, yêu sách “đường lưỡi bò” đã vi phạm chủ quyền lãnh thổ không chỉ của các nước liên quan mà còn là sự thách thức đối với quyền lợi hàng hải, hàng không của cộng đồng quốc tế. Cộng đồng thế giới chưa bao giờ ghi nhận một yêu sách chiếm cứ hầu hết toàn bộ Biển Đông như vậy và sẽ không bao giờ chấp nhận một vùng biển lớn, con đường hàng hải quốc tế quan trọng vào loại nhất, nhì thế giới lại nằm dưới quyền tài phán của duy nhất một quốc gia như yêu sách “đường lưỡi bò” của Trung Quốc.
Trung Quốc luôn tuyên bố muốn có hòa bình, ổn định và chủ trương giải quyết các vấn đề tranh chấp trên Biển Đông một cách hòa bình nhưng trên thực tế là ngược lại. Trung Quốc đã và đang tiến hành các hoạt động bằng vũ lực để độc chiếm Biển Đông. Đối với quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam, năm 1956, Trung Quốc chiếm các đảo phía Đông quần đảo Hoàng Sa và năm 1974 chiếm các đảo còn lại ở phía Tây quần đảo này. Năm 1988, Trung Quốc dùng sức mạnh quân sự chiếm 1 số đảo, bãi đá ngầm trong quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Những năm gần đây, Trung Quốc tăng cường các hoạt động, kể cả các hoạt động quân sự nhằm áp đặt yêu sách “đường lưỡi bò” chiếm gần trọn diện tích Biển Đông, bất chấp quyền lợi của các nước trong khu vực cũng như chính các điều luật quốc tế mà họ đã công nhận và ký kết. Đó là việc ngày 26/5 và 9/6/2011, tàu Trung Quốc đã hai lần xâm nhập cắt cáp thăm dò dầu khí của tàu Việt Nam hoạt động trong vùng biển chủ quyền Việt Nam (Ngày 27/5/2011, Việt Nam gửi Công hàm cho Đại sứ Trung Quốc tố cáo Trung Quốc vi phạm Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển và quyền chủ quyền của Việt Nam ngay trong khu vực đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam). Không dừng lại ở các hoạt động này, với bản chất của cường quyền nước lớn, bất chấp luật pháp quốc tế, bất chấp đạo lý và chủ quyền của các nước có liên quan, trong đó có Việt Nam, từ đầu tháng 5/2014, Trung Quốc ngang nhiên hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 cùng tàu thuyền, máy bay hộ tống vào sâu trong vùng biển của Việt Nam, xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam. Đến nửa cuối năm 2019, Trung Quốc lại ngang nhiên đưa tàu thăm dò, khảo sát địa chất Hải Dương 8 vào thăm dò trái phép trong vùng biển của Việt Nam.
Trước sự phản đối một cách kiên quyết của Việt Nam và cộng đồng quốc tế, Trung Quốc buộc phải rút HD 981 và Hải Dương 8 ra khỏi vùng biển của Việt Nam. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn tiếp tục thực hiện mưu đồ độc chiếm Biển Đông bằng việc chính quyền Bắc Kinh liên tục có các hành động bồi đắp, xây dựng và quân sự hóa các đảo, đá ở Biển Đông, bất chấp phản đối của các nước trong khu vực cùng dư luận quốc tế. Trung Quốc đã hoàn tất việc xây dựng trái phép 7 “đảo nhân tạo” ở Biển Đông, cùng với đó là việc triển khai các tổ hợp tên lửa HQ 9 tại đảo Phú Lâm trên quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam. Việc bồi đắp, quân sự hóa các địa điểm chiến lược trên Biển Đông, Trung Quốc đang thực hiện tham vọng đuổi các nước khỏi vùng lãnh thổ đang tranh chấp, tuyên bố lập Vùng Nhận diện Phòng không (ADIZ) bao trùm toàn bộ hoặc phần lớn Biển Đông.
Một số hành động nêu trên của Trung Quốc cho thấy, Trung Quốc lúc ngấm ngầm, lúc công khai đang tìm mọi cách độc chiếm Biển Đông, đe dọa độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
Chủ trương của Việt Nam
Trước những hành động cường quyền nước lớn của Trung Quốc, Nhà nước Việt Nam, một mặt,khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; mặt khác,chủ trương giải quyết các tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ cũng như các bất đồng khác liên quan đến Biển Đông thông qua thương lượng hòa bình trên tinh thần bình đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng pháp luật quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982, tôn trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán của các nước ven biển đối với vùng đặc quyền kinh tế về thềm lục địa. Trong khi nỗ lực thúc đẩy đàm phán để tìm giải pháp cơ bản và lâu dài, quan điểm của Việt Nam là các bên liên quan cần duy trì ổn định trên cơ sở giữ nguyên trạng không có hành động làm phức tạp thêm tình hình, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực. Điều đó đã được thể hiện ngay sau khi Chính phủ Việt Nam tuyên bố về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam (12/5/1977) là Chính phủ Việt Nam cùng các nước liên quan, thông qua thương lượng trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, phù hợp với luật pháp và tập quán quốc tế, giải quyết các vấn đề về các vùng biển và thềm lục địa của mỗi bên.
Trong bối cảnh tình hình quốc tế và khu vực hiện nay, để bảo vệ vững chắc chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ đất nước, trong đó có việc giải quyết vấn đề Biển Đông, Việt Nam đã ký các Hiệp định, thỏa thuận song phương giữa Việt Nam và các nước liên quan như: Hiệp định về Vùng nước lịch sử với Campuchia (1982); thỏa thuận khai thác chung với Malaysia (1992); Hiệp định phân ranh giới biển với Thái Lan (1997); Hiệp định phân định vịnh Bắc bộ và Hiệp định Hợp tác nghề cá với Trung Quốc (2000); Hiệp định phân định thềm lục địa với Indonesia (2003); Việt Nam đã thực hiện các cơ chế đối thoại và hợp tác về chính trị – an ninh khu vực, nhất là Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng với các đối tác quan trọng (ADMM +), Hội nghị những người đứng đầu các cơ quan an ninh ASEAN (MACOSA) và Diễn đàn Biển ASEAN (AMF), Việt Nam còn tăng cường các hoạt động tham kiến về đối sách trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước trong tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông.
Chủ trương nhất quán của Việt Nam là giải quyết các tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ cũng như các bất đồng khác liên quan đến Biển Đông thông qua thương lượng hòa bình trên tinh thần tôn trọng pháp luật quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Trong khi nỗ lực thúc đẩy đàm phán để tìm giải pháp cơ bản và lâu dài, các bên liên quan cần duy trì ổn định trên cơ sở giữ nguyên trạng không có hành động làm phức tạp thêm tình hình, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực.
Để ngăn chặn những hành động đơn phương có thể tạo nên căng thẳng, ngay từ năm 2010, Việt Nam và 9 nước thành viên còn lại trong ASEAN đã cùng với Trung Quốc bắt đầu thảo luận một Bộ Quy tắc hướng tới việc tránh xung đột giữa các bên đưa ra yêu sách ở Biển Đông. Sau các cuộc tham kiến giữa Việt Nam và các nước khác trong ASEAN, tại cuộc họp lần thứ 6 Quan chức Cao cấp (SOM) ASEAN – Trung Quốc và cuộc họp lần thứ 9 Nhóm Công tác chung ASEAN – Trung Quốc về triển khai Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) diễn ra trong hai ngày 14 và 15/9/2013, tại thành phố Tô Châu, Trung Quốc, ngoài việc định kỳ kiểm điểm và thúc đẩy thực hiện DOC, ASEAN và Trung Quốc đã tham vấn chính thức ở cấp SOM về việc xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông. Cũng tại cuộc họp này, ASEAN và Trung Quốc nhấn mạnh tầm quan trọng của bảo đảm hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn và tự do hàng hải ở Biển Đông và sự cần thiết phải xây dựng COC. Quan điểm của Việt Nam sau tham kiến được các thành viên khác của ASEAN đồng tình ủng hộ là cần sớm có COC mang tính ràng buộc và quy định tổng thể các quy tắc, hành vi ứng xử của các bên nhằm bảo đảm hòa bình, an ninh, an toàn hàng hải, ngăn ngừa và quản lý xung đột, giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở tuân thủ Luật pháp quốc tế và Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982.