Việt Nam là nước duy nhất có đầy đủ chứng cứ lịch sử, pháp lý và được đông đảo cộng đồng quốc tế công nhân có chủ quyền hợp pháp đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Để bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, lực lượng quân đội Việt Nam đã triển khai nhiều biện pháp phù hợp với quy định luật pháp trong nước, cũng như quốc tế.
Phù hợp quy định
Thứ nhất, tính chất của hoạt động quân sự của Việt Nam chỉ mang tính tự vệ, phòng thủ. Đây là một trong những tính chất quan trọng của chính sách quân sự của một quốc gia. Việt Nam phát triển quân đội nhằm mục đích tự vệ phòng thủ chứ không phải để phát động chiến tranh. Điều này được cụ thể hóa bằng rất nhiều chủ trương chính sách và điều khoản pháp luật. Sách trắng quốc phòng Việt Nam năm 2009 có ghi nhận: “Việt Nam thực hiện chính sách quốc phòng mang tính chất hoà bình, tự vệ, thể hiện ở chủ trương không sử dụng vũ lực hoặc đe doạ sử dụng vũ lực trong các quan hệ quốc tế, giải quyết mọi bất đồng và tranh chấp với các quốc gia khác bằng biện pháp hoà bình”.
Việt Nam chủ trương từng bước hiện đại hoá quân đội và phát huy tiềm lực quốc phòng với mục đích duy trì sức mạnh quân sự ở mức cần thiết để tự vệ. Đồng thời, Việt Nam phản đối những hoạt động chạy đua vũ trang. Là một dân tộc đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh vì độc lập, tự do của Tổ quốc nên Việt Nam triệt để tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích của các quốc gia khác trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế. Ngoài ra Việt Nam cũng đòi hỏi các quốc gia khác phải tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và các quyền lợi quốc gia của mình. Việt Nam chủ trương không đe doạ hoặc sử dụng sức mạnh quân sự trước trong quan hệ quốc tế nhưng sẵn sàng và kiên quyết giáng trả mọi hành động xâm lược.
Tích cực và chủ động ngăn ngừa, đẩy lùi những nguy cơ gây chiến tranh là một trong các nhiệm vụ trọng yếu của quốc phòng Việt Nam trong thời bình với mục tiêu thực hiện chiến lược quốc phòng tối ưu là bảo vệ chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và các quyền lợi quốc gia khác mà không phải tiến hành chiến tranh. Việt Nam chủ trương thực hiện chiến lược quốc phòng dựa trên tổng thể các hoạt động chính trị, kinh tế, ngoại giao, văn hoá – xã hội và quân sự nhằm loại trừ các nguyên nhân dẫn đến xung đột vũ trang và chiến tranh.
Thứ hai, chủ trương giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình. Biển Đông hiện nay tồn tại nhiều dạng tranh chấp. Chủ trương nhất quán của Việt Nam là giải quyết các tranh chấp đó bằng biện pháp hòa bình. Tinh thần này cũng được thể hiện ở nhiều chính sách và điều khoản pháp luật Việt Nam. Điều 12 Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi nhận đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế vì lợi ích quốc gia, dân tộc, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ trên đất liền, trên biển do lịch sử để lại hoặc mới nảy sinh bằng các biện pháp hoà bình trên cơ sở luật pháp quốc tế là chủ trương nhất quán của Việt Nam. Đối với các tranh chấp chủ quyền trên biển, mặc dù có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý chứng minh chủ quyền không thể tranh cãi đối với các vùng biển, đảo của Việt Nam trên Biển Đông, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam vẫn sẵn sàng đàm phán hoà bình để giải quyết các tranh chấp dựa trên các quy định của UNCLOS. Trong khi tiếp tục tìm kiếm giải pháp lâu dài cho vấn đề này, Việt Nam chủ trương các bên phải tự kiềm chế, nghiêm chỉnh thực hiện DOC, hướng tới xây dựng COC, tiến tới đạt được giải pháp công bằng, lâu dài cho vấn đề phức tạp này để Biển Đông luôn luôn là vùng biển hoà bình, hữu nghị và phát triển.
Thực trạng hoạt động quân sự của Việt Nam
Là một quốc gia khẳng định chủ quyền đối với toàn bộ các thực thể địa lý ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam đương nhiên có quyền tiến hành hoạt động quân sự trên Biển Đông. Các lực lượng vũ trang trên biển của Việt Nam bao gồm: hải quân, phòng không không quân, biên phòng, cảnh sát biển, kiểm ngư và dân quân tự vệ biển. Trong đó, lực lượng quân đội bao gồm: hải quân, phòng không không quân, biên phòng. Còn ba lực lượng cảnh sát biển, kiểm ngư và dân quân tự vệ biển mang tính chất dân sự và hoạt động của ba lực lượng này không được xem là hoạt động quân sự. Do đó, trong phần này, nhóm tác giả chỉ xét đến hoạt động của ba lực lượng hải quân, phòng không không quân và biên phòng.
Thứ nhất, hoạt động bảo vệ và xây dựng các thực thể địa lý ở Biển Đông. Bảo vệ và xây dựng các thực thể địa lý ở Biển Đông là một trong những minh chứng mạnh mẽ nhất của việc khẳng định chủ quyền đối với các thực thể địa lý đó. Sự phù hợp của hoạt động quân sự này với luật pháp quốc tế phụ thuộc vào danh nghĩa pháp lý của quốc gia đang thực hiện việc chiếm giữ đối với lãnh thổ bị chiếm giữ. Nói cách khác, nếu quốc gia thực hiện việc bảo vệ các vùng lãnh thổ là quốc gia có chủ quyền đối với vùng lãnh thổ đó thì đây là một việc làm hoàn toàn phù hợp với luật pháp quốc tế. Từ đó, vấn đề chủ quyền đối với các thực thể địa lý ở Biển Đông là một trong những khía cạnh pháp lý trọng yếu để đánh giá mức độ hợp pháp của các hoạt động quân sự đang diễn ra trên Biển Đông. Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và căn cứ pháp lý để khẳng định chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Để minh chứng cho chủ quyền không thể tranh cãi này, Việt Nam đã viện dẫn nguyên tắc chiếm hữu thực sự là phương thức thụ đắc lãnh thổ đối với cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Theo đó, việc chiếm giữ các thực thể địa lý ở Biển Đông đã có lịch sử ít nhất từ thế kỷ XVII, do các đội Hoàng Sa, đội Bắc Hải thực hiện. Trải qua nhiều biến động lịch sử, tuy rằng thể chế nhà nước đã có sự thay đổi dẫn đến lực lượng thực hiện việc chiếm giữ cũng thay đổi nhưng danh nghĩa chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo là không bị thay đổi. Bên cạnh đó, lịch sử cũng cho thấy rằng, quân đội Việt Nam khi đưa quân đội ra các đảo thì không hề xảy ra cuộc đối đầu với quân đội nước ngoài. Do đó, việc chiếm giữ và xây dựng của quân đội Việt Nam đối với các thực thể địa lý ở Biển Đông là hoàn toàn phù hợp với luật pháp quốc tế.
Tuy khẳng định chủ quyền đối với toàn bộ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nhưng trên thực tế quân đội Việt Nam không thực hiện việc chiếm giữ trên toàn bộ các đảo trong hai quần đảo này. Về số lượng các thực thể địa lý ở Biển Đông mà quân đội Việt Nam đang chiếm giữ cũng có nhiều sự khác biệt trong những nguồn tài liệu khác nhau. Theo tài liệu chính thức từ phía Việt Nam thì nước này đang có quân đội hiện diện trên 21 thực thể địa lý. Cụ thể, chín thực thể luôn nổi trên mặt nước bao gồm: Trường Sa Lớn, Nam Yết, Song Tử Tây, Sơn Ca, Sinh Tồn Đông, Phan Vinh, An Bang, Trường Sa Đông và 12 bãi cạn bao gồm: Đá Nam, Đá Thị, Đá Lớn, Đá Lát, Đá Đông, Đá Tây, Cô Lin, Len Đao, Tốc Tan, Núi Le, Tiên Nữ, Thuyền Chài.
Bên cạnh việc chiếm giữ các thực thể địa lý thì việc xây dựng các thực thể địa lý đó hay các công trình nhân tạo trên Biển Đông cũng là một hoạt động cần được chú ý. Ở các thực thể địa lý mà Việt Nam đang chiếm giữ, nước này cũng đã xây dựng một công trình phục vụ đời sống của quân đội và dân cư. Đặc biệt là ở 12 bãi cạn, Việt Nam đã xây dựng công trình duy trì sự túc trực thường xuyên của quân đội. Theo Bộ Quốc phòng Mỹ, trong giai đoạn 2009-2015, Việt Nam đã lắp đặt radar và vệ tinh viễn thông ở 15 vị trí, cải thiện chất lượng sống ở 19 vị trí, cải thiện quốc phòng ở 18 vị trí; trong giai đoạn 2011-2015, Việt Nam đã xây dựng sân bay trực thăng ở 06 vị trí.
Thêm vào đó, căn cứ theo Điều 60 UNCLOS thì trong vùng đặc quyền kinh tế, quốc gia ven biển có quyền xây dựng, khai thác và sử dụng các công trình nhân tạo vào mục đích phù hợp với Điều 56 UNCLOS hoặc các mục đích kinh tế khác. Do đó, Việt Nam đã xây dựng được 15 nhà giàn DK1 trên các bãi cạn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam như: Tư Chính (ba lô), Phúc Nguyên (một lô), Phúc Tần (bốn lô), Quế Đường (hai lô), Huyền Trân (một lô), Ba Kè (ba lô) và DK1/10 (bãi cạn Cà Mau). Tuy rằng việc xây dựng các nhà giàn này là do quân đội đảm nhận và trên thực tế thì sống trong các nhà giàn đó cũng là quân nhân nhưng Việt Nam đang sử dụng các nhà giàn này vào mục đích kinh tế, nghiên cứu khoa học biển, bảo vệ môi trường biển, thăm dò khai thác tài nguyên dầu khí và hỗ trợ ngư dân, …
Đáng chú ý, quan điểm của Việt Nam là không cố ý biến các bãi cạn này thành đảo nổi và cố tình gán ghép chúng trở thành một bộ phận của quần đảo Trường Sa. Việt Nam cho rằng mọi hành vi cố ý và gán ghép đó là hoàn toàn sai trái trong việc giải thích và áp dụng UNCLOS cần phải lên án, bác bỏ. Từ đó, xét về danh nghĩa pháp lý của việc xây dựng các nhà giàn thì Việt Nam đang thực hiện quyền chủ quyền trên vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình, còn xét về mục đích thì các nhà giàn đó được sử dụng hòa bình, không mang tính tấn công, tác chiến. Do vậy, việc xây dựng này hoàn toàn phù hợp với luật pháp quốc tế.
Thứ hai, hiện đại hóa quân đội. Hải quân Việt Nam đã củng cố nên quốc phòng tự lực và đã nâng cao năng lực trong những năm gần đây. Việt Nam cũng đã ký hợp đồng một số lượng vũ khí với Ba Lan trong năm 2005 cho 10 máy bay tuần tra biển M-28 và khoảng 40 máy bay Su-22M, một vài trong số chúng có vai trò tấn công trên biển. Thêm vào đó, Việt Nam đang đóng mới 40 tàu bản địa 400 tấn tuần tra ngoài khơi và sáu tàu tuần tra bờ biển 150 tấn. Không quân Việt Nam cũng tăng cường mua máy bay đã qua sử dụng được tân trang lại Su-22s (từ Cộng hòa Séc và Ba Lan) và L-39s (từ Cộng hòa Séc và Ukraine) nhằm nâng cao sức mạnh không quân. Do nỗ lực hiện đại hóa quân sự của mình, chi tiêu hải quân của Việt Nam đã tăng lên từ 1,9% GDP năm 2005 đến 2,5% năm 2009. Bước phát triển lớn nhất là quyết định tháng 12/2009 khi Việt Nam mua sáu tàu ngầm lớp Kilo từ Nga. Ngoài ra, Việt Nam cũng đặt hai tàu khu trục nhỏ lớp Gepard vào năm 2006, đã được giao vào năm 2011 và 37 máy bay chiến đấu trong thời gian từ năm 2004 đến năm 2010, bao gồm 24 chiếc Su-30MKs tiên tiến. Nhìn chung, những sự hiện đại hóa này chỉ ra rằng Việt Nam đáng phát triển các biện pháp để ngăn chặn Trung Quốc khỏi sử dụng các lực lượng hải quân ở các tranh chấp ở Biển Đông. Trước sức ép bảo vệ chủ quyền quốc gia đối với các đảo đá ở Biển Đông, việc hiện đại hóa quân đội của Việt Nam cũng là một xu hướng tất yếu. Luật pháp quốc tế không ràng buộc quốc gia trong việc nâng cao khả năng phòng thủ của quân đội.
Từ những vấn đề trên cho thấy hoạt động quân sự của Việt Nam ở Biển Đông có xu hướng phòng thủ. Tuy chi phí quốc phòng có tăng nhưng vẫn giữ mức hài hòa ổn định cùng với sự gia tăng của chỉ số GDP. Xu hướng hiện đại hóa quân sự cũng là để ứng phó với những căng thẳng Biển Đông do một số nước trong và ngoài khu vực gây ra. Do đó, đây là hoạt động quốc phòng bình thường của một quốc gia, không có dấu hiệu của sự đẩy mạnh tăng cường sức mạnh quân sự cũng như không có bất cứ hoạt động nào vượt ngoài thẩm quyền của quốc gia ven biển đối với các vùng biển thuộc quyền tài phán của mình đồng thời chưa có ghi nhận về hoạt động quân sự nào mang tính khiêu khích, đe dọa hòa bình và an ninh Biển Đông. Bên cạnh đó, Việt Nam không liên minh quân sự với bất kỳ nước nào. Như đã đề cập, chủ trương của Việt Nam là thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa. Điều này được thể hiện thông qua việc Việt Nam không liên minh quân sự, không liên kết với nước này để chống lại nước khác. Từ thực tế cho thấy, Việt Nam khá độc lập trong các hoạt động quân sự. Cho đến nay, Việt Nam chưa ký kết bất kỳ một hiệp định nào nhằm liên minh quân sự với nước ngoài. Ngoài ra, Việt Nam đã chủ động hợp tác quân sự và xu thế này ngày càng được xúc tiến mạnh mẽ và là một biểu hiện nổi bật cho thái độ thân thiện và hợp tác của Việt Nam dù là quốc gia chịu tác động trực tiếp và sâu sắc từ tranh chấp ở Biển Đông và hoạt động quân sự của các nước khác trong khu vực.