Phái đoàn thường trực Việt Nam tại Liên Hợp Quốc (13/4) đã đệ trình Công hàm phản hồi quan điểm của Malaysia và Philippines về vấn đề Biển Đông lên Tổng thư ký Liên hợp quốc.
Theo đó, Phái đoàn thường trực Việt Nam tại Liên Hợp Quốc vừa có Công hàm số 24/HC-2020 gửi Tổng thư ký Liên Hợp Quốc phản hồi Công hàm số HA 59/12 ngày 12/12/2019 của Malaysia về vấn đề Biển Đông. Công hàm của Việt Nam nêu rõ, liên quan đến Công hàm số HA 59/12 ngày 12/12/2019 của Phái đoàn thường trực Malaysia tại Liên Hợp Quốc gửi Tổng thư ký Liên Hợp Quốc, liên quan đến Báo cáo riêng của Malaysia trình Ủy ban Ranh giới thềm lục địa, Việt Nam bày tỏ lập trường như sau: Việt Nam lưu ý rằng, theo điều 76 (10) và Phụ lục 2 của Công ước của Liên Hợp Quốc về luật Biển 1982 mà cả Việt Nam và Malaysia là thành viên, hoạt động của Ủy ban Ranh giới thềm lục địa không làm phương hại đến các vấn đề liên quan đến phân định ranh giới giữa các quốc gia có bờ biển đối diện hoặc tiếp liền. Việt Nam nhắc lại Báo cáo chung ngày 6/5/2009 giữa Việt Nam và Malaysia về ranh giới thềm lục địa ngoài 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải ở phần phía nam Biển Đông và Báo cáo ngày 7/5/2009 của Việt Nam về ranh giới thềm lục địa ngoài 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải ở phần phía bắc Biển Đông.
Ngoài ra, Việt Nam bảo lưu quyền đệ trình các thông tin liên quan về ranh giới thềm lục địa ngoài 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải tại các khu vực khác ở Biển Đông. Lập trường này của Việt Nam đã được đề cập trong nhiều văn bản được lưu hành tại Liên Hợp Quốc và các đệ trình, tuyên bố gửi các cơ quan quốc tế liên quan.
Phái đoàn thường trực Việt Nam tại Liên Hợp Quốc cũng có Công hàm số 25/HC-2020 phản hồi Công hàm số 000191-2020 và 000192-2020 ngày 6/3/2020 của Phái đoàn thường trực Philippines tại Liên hợp quốc gửi Tổng thư ký Liên Hợp Quốc. Theo đó, lập trường nhất quán của Việt Nam là, Việt Nam có đầy đủ chứng cứ lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, phù hợp với các quy định của luật pháp quốc tế. Việt Nam cũng có chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của mình đối với các vùng biển ở Biển Đông được xác định phù hợp với Công ước của Liên Hợp Quốc về luật Biển 1982. Lập trường này của Việt Nam đã được đề cập trong nhiều văn bản được lưu hành tại Liên Hợp Quốc và các đệ trình, tuyên bố gửi các cơ quan quốc tế liên quan.
Phái đoàn thường trực Việt Nam đề nghị Tổng thư ký Liên Hợp Quốc lưu hành công hàm này đến tất cả các quốc gia thành viên Công ước của Liên Hợp Quốc về luật Biển 1982, cũng như tất cả các thành viên của Liên Hợp Quốc.
Được biết, Được biết, vào tháng 12 năm 2019, Malaysia đã đệ trình kiến nghị lên Ủy ban về giới hạn của thềm lục địa (UNCLCS) của Liên hợp quốc để mở rộng thềm lục địa vượt quá giới hạn 200 hải lý từ các đường cơ sở mà từ đó độ rộng của lãnh hải được đo trong tranh chấp Biển Đông. Theo phía Malaysia, đây là một bản đệ trình một phần cho phần còn lại của thềm lục địa Malaysia ngoài 200 hải lý ở phía Bắc Biển Đông. Theo Quy tắc về thủ tục của CLCS, sự kiện này sẽ được thông báo cho tất cả các quốc gia thành viên Liên hợp quốc, cũng như các quốc gia đã ký kết UNCLOS. Yêu cầu nói trên của Malaysia sẽ được ghi vào chương trình nghị sự kỳ họp thứ 53 của Ủy ban tại New York từ ngày 06/7 – 21/8/2021. CLCS có chức năng đưa ra các khuyến nghị cho các quốc gia ven biển về thềm lục địa mở rộng, và tư vấn nếu có yêu cầu. Các ranh giới được thiết lập trên cơ sở những khuyến nghị này được chính thức công nhận.
Về Công hàm của Malaysia, Đại sứ Nguyễn Hồng Thao, thành viên Việt Nam của Ủy ban Luật pháp quốc tế thuộc Liên hợp quốc (ILC), hành động trên của Malaysia là nhằm thực hiện một số ý đồ chiến lược sau: Đầu tiên, lần đệ trình này mở rộng thềm lục địa được vẽ trong bản đồ của Cục Bản đồ và Đo lường Malaysia vẽ năm 1979 ở cả vùng phía nam và phía bắc trên Biển Đông của nước này. Diện tích này gần gấp đôi so với thềm lục địa yêu sách năm 1979 của Malaysia. Thứ hai, nó hoàn toàn cho thấy sự ủng hộ với phán quyết của tòa trọng tài năm 2016, xác định toàn bộ các thực thể trên quần đảo Trường Sa chỉ có lãnh hải 12 hải lý và không yêu sách với việc mở rộng vùng đặc quyền kinh tế cũng như thềm lục địa. Thú vị hơn, trang đầu tiên của đơn đăng ký từng phần này có ghi năm 2017. Có lẽ tài liệu này đã được chuẩn bị từ lâu trước khi được quyết định đệ trình. Thứ ba, lần đệ trình này phủ định gián tiếp yêu sách đường 9 đoạn vô lý của Trung Quốc, mặc dù Malaysia không phải là một bên tham gia vụ kiện Biển Đông của Philippines. Trong công hàm ngày 12/12/2019 phản đối đệ trình của Malaysia, Trung Quốc lặp lại yêu sách về vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa dựa trên các đảo (những hòn đảo mà trong khu vực mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền một cách vô lý) và quyền lịch sử trên Biển Đông. Thứ 4, đệ trình này ủng hộ việc áp dụng một cách tương tự phán quyết của tòa trọng tài với những thực thể trên quần đảo Hoàng Sa khi tuyên bố rằng “các chủ thể trong đơn đệ trình đăng ký từng phần không nằm trong khu vực có vùng đất hay tranh chấp về lãnh hải giữa Malaysia và bất cứ quốc gia ven biển nào”. Thứ 5, nó thúc đẩy các quốc gia có dính líu khác đàm phán với Malaysia về quy định phạm vi của những khu vực có thể chồng lấn. Đơn đệ trình thừa nhận rằng “có những khu vực có thể chồng lấn được phép dựa trên sự tôn trọng thềm lục địa vượt quá 200 hải lý của khu vực theo chủ thể trong đơn đệ trình từng phần”. Theo đó, Philippines có thể cùng với Việt Nam và Malaysia cùng đệ trình 3 bên về thềm lục địa mở rộng vượt quá 200 hải lý trong tương lai. Thứ 6, đơn đệ trình được đưa ra trước khi kết thúc đàm phán về bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC), cho phép Malaysia tránh được những hạn chế (nếu có) khi COC hoàn thành. Nó cũng giúp Malaysia tìm kiếm những lợi thế trong đàm phán trên Biển Đông. Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, lần đệ trình này cũng khuyến khích tới Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa của Liên Hợp Quốc (CLCS) xem xét lại đơn đệ trình chung của Việt Nam và Malaysia khi nó bị Trung Quốc và Philippines phản đối – những lý do này đã được tòa trọng tài xóa bỏ năm 2016.
Đến ngày 6/3, Philippines có Công hàm đề nghị bác bỏ yêu cầu của Malaysia về việc mở rộng giới hạn của thềm lục địa ở Biển Đông. Theo đó, đề nghị mở rộng giới hạn thềm lục địa ở Biển Đông của Malaysia bao gồm bao gồm các điểm trong Nhóm đảo Kalayaan mà Philippines có chủ quyền và khu vực này cũng chồng lấn với thềm lục địa ngoài 200 hải lý tính từ đường cơ sở đo chiều rộng của lãnh hải của Cộng hòa Philippines theo quy định của UNCLOS. Do đó, Philippines đã đề xuất Ủy ban thềm lục địa của Liên hợp quốc bác bỏ kiến nghị mở rộng giới hạn của thềm lục địa ở Biển Đông của Malaysia. Bên cạnh đó, Philippines cũng bác bỏ quan điểm của Trung Quốc đối với kiến nghị của Malaysia, choi rằng nó không phù hợp với luật pháp quốc tế, bao gồm Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS) phân bổ quyền hàng hải cho các quốc gia thành viên. Phía Philippines trích dẫn phán quyết của trọng tài vào tháng 7 năm 2016, chỉ ra rằng theo UNCLOS, không có tính năng thủy triều cao nào ở quần đảo Trường Sa có khả năng duy trì sự sống của con người hoặc đời sống kinh tế của chính họ. Họ cũng không thể tạo ra các quyền lợi cho một vùng đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa. Theo đó, Tòa Trọng tài đã giải quyết một cách thuyết phục vấn đề về quyền lịch sử và các quyền lợi hàng hải ở Biển Đông. Toà án phán quyết rằng các yêu sách đối với các quyền lịch sử, hoặc các quyền chủ quyền hoặc quyền tài phán khác vượt quá giới hạn địa lý và thực chất của các quyền lợi hàng hải theo UNCLOS, là không có hiệu lực pháp lý. Tuy nhiên, Philippines vẫn chưa đệ trình chính thức lên UNCLCS yêu cầu thềm lục địa mở rộng.
Viện trưởng Viện Các vấn đề Hàng hải và Luật Biển Philippines, Tiến sĩ Jay Batongbacal đã gọi bản thuyết minh của Philippines về phản ứng của Trung Quốc là một cách có ý nghĩa về mặt pháp lý; ông chỉ ra rằng Philippines đã thực sự viện dẫn Phán quyết của Trọng tài một cách phù hợp để chống lại các yêu sách bất hợp pháp dai dẳng của Trung Quốc tại Biển Đông và “cách Philippines tuyên bố ý định tuyên bố thềm lục địa mở rộng yêu cầu (tức là vượt quá 200 hải lý) đến đáy biển quanh quần đảo Trường Sa, điều này cũng phù hợp với việc phân bổ các quyền lợi cho các khu vực hàng hải được nêu trong Phán quyết của Tòa”. Về phần ghi chú về yêu cầu bồi thường của Malaysia, Batongbacal giải thích rằng Philippines chỉ đơn giản tuyên bố rằng thực tế là khu vực mà Malaysia tuyên bố chủ quyền cũng phải tuân theo yêu sách tiềm năng của Philippines. Tuy nhiên, Tiến sĩ Jay Batongbacal cho rằng đây không phải là “đối kháng trực tiếp” của Philippines chống lại đệ trình năm 2009 của Malaysia và Việt Nam; đồng thời nhận định điều này chỉ ra rằng “cánh cửa có thể mở ra cho sự phối hợp giữa Philippines, Malaysia và có thể cả Việt Nam liên quan đến yêu sách thềm lục địa tương ứng của họ ở Biển Đông”.