Năm 2016, khi ra phán quyết về vụ kiện giữa Philippines và Trung Quốc về tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, Tòa Trọng tài thường trực quốc tế (PCA) đã bác bỏ yêu sách “quyền lịch sử” của Trung Quốc theo “đường chín khúc” và xác định, không cấu trúc địa lý nào tại quần đảo Trường Sa có vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa. Mặc dù Trung Quốc không công nhận PCA và một mực bác bỏ phán quyết trên, nhưng kết luận của PCA cũng đã tác động lớn đến các yêu sách của Bắc Kinh tại Biển Đông. Đó là họ một mặt khư khư bám giữ, không dám từ bỏ các yêu sách đã tuyên bố trước đây vì lo ngại bị thế giới cho rằng Trung Quốc đã chấp nhận phán quyết của PCA. Mặt khác, Trung Quốc thấy cần thiết phải xây dựng yêu sách và lập luận mới để “lách” khỏi những gì PCA đã tuyên nhằm bảo đảm các lợi ích mà họ “nhận xằng” tại Biển Đông vẫn được giữ nguyên, ít nhất là về mặt pháp lý, đồng thời, giảm nhẹ các chỉ trích về việc Bắc Kinh không tuân thủ phán quyết của PCA.
Trong bối cảnh đó, năm 2017, Trung Quốc đưa ra yêu sách “Tứ Sa” một cách không chính thức và cũng không giải thích cụ thể cả về nội dung và cơ sở pháp lý của yêu sách này và đến nay, sau một thời gian “nghe ngóng” tình hình, họ mới “chính thức hóa” yêu sách đó bằng công hàm trước Liên hợp quốc. Với các lý lẽ mà họ đưa ra, có thể thấy yêu sách “Tứ Sa” bao gồm hai đòi hỏi quan trọng là chủ quyền đối với các nhóm cấu trúc đá và bãi ngầm tại Biển Đông và chủ quyền, quyền chủ quyền tạo ra từ các vùng biển bao quanh các nhóm cấu trúc đó. Phó Vụ trưởng Vụ Luật pháp và Điều ước Bộ Ngoại giao Trung Quốc Mã Tân Dân đã đưa ra khẳng định “chủ quyền” của Trung Quốc đối với “Tứ Sa” bao gồm bốn nhóm đảo: Đông Sa (Pratas), Tây Sa (Hoàng Sa), Nam Sa (Trường Sa) và Trung Sa (Macclesfield), đồng thời cũng đòi hỏi quyền được hưởng vùng biển rộng lớn (gần như toàn bộ Biển Đông) xung quanh bốn khu vực quần đảo này. Ông Mã nhấn mạnh rằng, khu vực này là vùng “lãnh hải lịch sử” của Trung Quốc và cũng là một phần của vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Trung Quốc. Bắc Kinh cũng yêu sách quyền “sở hữu” bằng việc khẳng định “Tứ Sa” là một phần của thềm lục địa mở rộng của Trung Quốc.
Về bản chất, yêu sách “Tứ Sa” vẫn phản ánh tham vọng không thay đổi của Trung Quốc là “độc chiếm” Biển Đông thông qua việc khẳng định “chủ quyền” với “Tứ Sa” và kết luận rằng, các cấu trúc đá và bãi ngầm tại đây có đầy đủ các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán. Có thể thấy chiến thuật này cũng giúp cho Trung Quốc yêu sách vùng biển có phạm vi gần như không khác biệt mấy so với yêu sách “đường chín khúc” trước đây. Nói cách khác, việc đưa ra yêu sách này là chiến thuật pháp lý mới của Trung Quốc, thay thế cho yêu sách “đường chín khúc” sau khi nó chính thức bị tuyên bố là bất hợp pháp bởi phán quyết của PCA.
Xét dưới góc độ pháp lý, giống như yêu sách “đường chín khúc” trước đây, yêu sách các vùng biển dựa trên chủ quyền đối với “Tứ Sa” mà Trung Quốc đưa ra cũng là một phiên bản mơ hồ, thiếu rõ ràng, lập luận pháp lý không có căn cứ và thiếu logic, cụ thể:
Thứ nhất, về cơ sở pháp lý của yêu sách chủ quyền, mặc dù Trung Quốc luôn khẳng định đã phát hiện, đặt tên cho các cấu trúc địa lý tại Biển Đông từ thời kỳ cổ đại nhưng không có bằng chứng nào được đưa ra để minh chứng cho hành động thực thi chủ quyền của Trung Quốc với các nhóm đảo Hoàng Sa và Trường Sa với tư cách nhà nước.
Thứ hai, về việc xác lập đường cơ sở quần đảo, Trung Quốc không có cơ sở pháp lý để thiết lập đường cơ sở quần đảo đối với bất cứ nhóm đảo nào thuộc “Tứ Sa”. Vì đối chiếu với các quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982), Trung Quốc không phải là quốc gia quần đảo. Do đó, Trung Quốc không thể áp dụng phương pháp vẽ đường cơ sở thẳng quần đảo, và cho dù Trung Quốc vẽ đường cơ sở thẳng như vậy thì cũng không thể đáp ứng được yêu cầu tỷ lệ diện tích nước so với diện tích đất nằm trong khoảng 1/1 và 9/1 theo quy định của UNCLOS 1982. Để biện minh cho điểm yếu “chí mạng” là quốc gia lục địa, sao lại áp dụng phương pháp vẽ đường cơ sở thẳng quần đảo, Trung Quốc lập luận rằng, phương pháp đường cơ sở quần đảo theo quy định tại Điều 47 UNCLOS 1982 không chỉ giới hạn cho các quốc gia quần đảo, trên thực tế, nhiều quốc gia lục địa cũng áp dụng đường cơ sở quần đảo cho các nhóm đảo và tạo thành tập quán quốc tế. Lập luận này không đúng vì số lượng các quốc gia lục địa áp dụng phương pháp đường cơ sở quần đảo cho các nhóm đảo như vậy rất ít. Đặc biệt, trong quá trình đàm phán xây dựng UNCLOS, vấn đề áp dụng đường cơ sở quần đảo cho nhóm đảo của quốc gia lục địa đã được đề cập và bị các nước tham gia đàm phán bác bỏ, không công nhận. Vì vậy, đây là các thực tiễn áp dụng sai quy định của UNCLOS 1982, không tạo ra tập quán quốc tế như Trung Quốc cố tình diễn giải.
Thứ ba, về yêu sách vùng biển rộng lớn cho “Tứ Sa”: Các thực thể ở Biển Đông có chung đặc điểm địa lý là các cấu tạo san hô, có diện tích nhỏ và với các điều kiện tự nhiên nguyên sơ ban đầu, không có khả năng cho con người sinh sống và không có đời sống kinh tế riêng. Chính vì vậy, phán quyết của PCA trong vụ kiện của Philippines đã khẳng định các cấu trúc địa lý của Trường Sa và Scarborough/Hoàng Nham không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng. Với đặc điểm tự nhiên tương đồng, kết luận này của PCA cũng có thể áp dụng với tất cả các nhóm đảo khác trong lập luận “Tứ Sa”, bao gồm Đông Sa (Pratas), Tây Sa (Hoàng Sa), Trung Sa (Macclesfield). Đồng thời, chính Trung Quốc cũng thừa nhận trong Sách trắng năm 2016 của mình rằng, nhiều cấu trúc tại các quần đảo này có điều kiện tự nhiên khác nhau bao gồm đá ngầm, bãi cạn, cồn cát… Do đó, một số cấu trúc địa lý chỉ có thể tạo ra vùng biển tối đa 12 hải lý theo quy định của UNCLOS 1982 – phạm vi nhỏ hơn rất nhiều so với vùng biển mà Trung Quốc muốn yêu sách. Vì vậy, yêu sách vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý cho “Tứ Sa”, trong đó có Trường Sa, Hoàng Sa là đi ngược lại kết luận của PCA có giá trị pháp lý ràng buộc với Trung Quốc.
Căn cứ các Điều 7, 10 và 47 của UNCLOS 1982 cũng như cách giải thích của các cơ quan tài phán quốc tế, việc xác lập đường cơ sở thẳng bao quanh các nhóm cấu trúc địa lý ngoài khơi và xa bờ là không phù hợp với Công ước. Đồng thời, thực tiễn quốc tế cũng như “quan điểm pháp lý” của các quốc gia thể hiện trước và sau khi UNCLOS có hiệu lực đều cho thấy, không tồn tại tập quán quốc tế cho phép các quốc gia ven biển được xác lập đường cơ sở thẳng bao quanh các nhóm cấu trúc địa lý ngoài khơi và xa bờ. Nên nhớ, khi phê chuẩn UNCLOS vào năm 1996, Trung Quốc đã chấp thuận sự ràng buộc của Công ước (bao gồm cả các Điều 7, 10 và 47). Nếu Trung Quốc xác lập đường cơ sở thẳng bao quanh 4 nhóm cấu trúc địa lý tại Biển Đông theo yêu sách “Tứ Sa” và viện dẫn tập quán quốc tế làm cơ sở pháp lý, thì theo quan điểm của PCA trong vụ kiện giữa Philippines và Trung Quốc, hành vi này sẽ làm giảm giá trị pháp lý của UNCLOS, đồng thời vi phạm nghĩa vụ tuân thủ UNCLOS theo Điều 300 của Công ước và nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực hiện các điều ước quốc tế được quy định trongCông ước Viên về luật Điều ước quốc tế năm 1969 mà Trung Quốc cũng là thành viên. Vì vậy, cách tốt nhất để thể hiện là một quốc gia tôn trọng luật pháp quốc tế và chứng minh nghĩa vụ thực hiện điều ước quốc tế, Trung Quốc cần từ bỏ đường cơ sở bao quanh Hoàng Sa mà họ cố tình xác lập năm 1996.
Bước chuyển chiến thuật về yêu sách và diễn giải yêu sách tại Biển Đông lần này của Trung Quốc cho thấy: (1) Bắc Kinh đang “chơi trò” mập mờ trong yêu sách chủ quyền để có thể biến hóa ra nhiều cách diễn giải khác nhau, làm cho thế giới hiểu nhầm và dễ chấp nhận. (2) Hiện nay, Trung Quốc đang tiến hành cuộc chiến trên “mặt trận pháp lý” ở Biển Đông, coi đây là một trong những công cụ hữu ích trong chính sách Biển Đông để từng bước “hợp thức hóa” yêu sách chủ quyền và tuyên truyền Luật biển theo quan điểm riêng của Trung Quốc. (3) Trung Quốc đang tính đến khả năng vẽ đường cơ sở quần đảo đối với 3 quần đảo còn lại trong số 4 quần đảo thuộc “Tứ Sa” như đã làm đối với quần đảo Hoàng Sa và đưa ra yêu sách đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa được xác định dựa trên đường cơ sở các quần đảo này. Như vậy, vùng biển mà Trung Quốc yêu sách được tạo ra từ đường cơ sở thẳng của các quần đảo trên sẽ có phạm vi rộng hơn cả vùng biển tạo ra bởi yêu sách “đường chín khúc” trước đây. Ví dụ: Vùng biển của quần đảo Trung Sa sẽ bao gồm cả bãi cạn Scarborough và điểm cực Nam của Trung Quốc sẽ đến tận James Shoal (thuộc vùng biển của Trường Sa).
Tuy nhiên, dù Trung Quốc có ngụy tạo cách gì thì cộng đồng quốc tế vẫn nhận ra được “chiêu trò” và “dã tâm” của họ, cùng nhau đồng thanh lên tiếng bác bỏ và phản ứng mạnh mẽ.
Ngay sau khi Trung Quốc đưa ra yêu sách “Tứ Sa”, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ lúc đó đã nhắc lại lập trường nhất quán của Mỹ trong vấn đề Biển Đông, đó là các yêu sách biển của các quốc gia phải phù hợp với Luật biển quốc tế được phản ánh trong UNCLOS 1982. Trong khi đó, cựu Tư lệnh tình báo Hạm đội Thái Bình Dương Mỹ Jim Fanell cho rằng, việc Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối với “Tứ Sa” là bước đi logic tiếp theo trong chiến lược “lát cắt salami” nhằm yêu sách toàn bộ Biển Đông của quốc gia này, thay thế cho yêu sách “đường chín khúc” vốn bị phản đối mạnh mẽ từ các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới.
Nhiều chuyên gia luật pháp quốc tế cũng cho rằng, mặc dù đưa ra “luận điểm” mới về yêu sách chủ quyền trên biển rất thiếu cơ sở về mặt pháp lý, thậm chí còn thiếu hơn cả yêu sách “đường chín khúc”, nhưng nó vẫn đem lại cho Trung Quốc một số lợi ích nhất định. Đó là: (1) Việc đưa ra yêu sách “đường chín khúc” trước đây đã khiến Trung Quốc trở thành tâm điểm của nhiều sự chỉ trích ở cả trong và ngoài nước, trong khi yêu sách chủ quyền đối với “Tứ Sa” có thể vấp phải ít sự chỉ trích hơn, nhất là đối với người Trung Hoa. (2) Trung Quốc có thể làm giảm thiểu sự phản đối của cộng đồng quốc tế và giành được sự ủng hộ của các đối tác tiềm năng trong khu vực (ví dụ như Philippines) nhờ việc tuyên bố yêu sách với câu chữ gần với quy định của UNCLOS 1982 hơn. (3) Với vai trò là một cường quốc đang lên, Trung Quốc rất muốn tham gia vào việc định hình “luật chơi”, cụ thể là tìm cách giải thích lại các quy định của UNCLOS 1982 và các quy định hiện hành của luật pháp quốc tế theo hướng phù hợp với lợi ích quốc gia của mình. Trung Quốc có thể dựa vào đội ngũ luật sư và học giả luật pháp quốc tế của họ để tìm kiếm sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế – đây chính là việc sử dụng kết hợp giữa chiến tranh pháp lý, chiến tranh truyền thông và chiến tranh tâm lý mà Trung Quốc đang triển khai để củng cố yêu sách của họ trên Biển Đông.
Trong một bài viết mới đây của hai chuyên gia về công pháp quốc tế là Julian Ku và Christopher Mirasola trên trang Lawfare – một trang chuyên về an ninh do Lawfare Institute và Brookings Institution (Mỹ) thực hiện, với sự hợp tác của nhiều luật gia, có tựa đề “Biển Đông và yêu sách Tứ Sa của Trung Quốc: Lý thuyết mới về pháp luật, nhưng lập luận tệ hại như cũ”, hai chuyên gia trên cho rằng, về mặt luật pháp, lý lẽ mà Trung Quốc đưa ra về “Tứ Sa” cũng chẳng có gì hơn so với “đường chín khúc” lâu nay. Nó không phải là một khái niệm mới mẻ, thậm chí đã xuất hiện từ lâu trong các văn kiện pháp lý và tuyên bố chính thức của quốc gia này. Cụ thể: Luật về lãnh hải và đường tiếp giáp của Trung Quốc năm 1992 đã tuyên bố lãnh thổ Trung Quốc bao gồm cả “Đông Sa, Tây Sa, Trung Sa và Nam Sa”. Sách Trắng Trung Quốc công bố năm 2016 khi tranh chấp với Philippines cũng khẳng định chủ quyền “Nam Hải chư đảo” (các đảo trên Biển Đông) gồm bốn nhóm đảo trên, kể cả “các đảo, rạn san hô, bãi cạn, thực thể có số lượng và kích thước khác nhau”. Năm 1996, Trung Quốc ấn định các đường cơ sở bao quanh quần đảo Hoàng Sa, coi đây là một đơn vị địa lý duy nhất nhằm mở rộng tối đa yêu sách. Tất cả những văn kiện nêu trên của Trung Quốc hoàn toàn không phù hợp với phán quyết của PCA, vì phán quyết của PCA năm 2016 đã khẳng định, không một thực thể nào ở Trường Sa đủ lớn để có được lãnh hải 12 hải lý xung quanh. Do Trung Quốc không phải là một quốc gia gồm nhiều đảo hợp lại như Indonesia hay Philippines, nên hầu hết các nước đều coi việc vẽ ra những đường cơ sở xung quanh một nhóm đảo là đi ngược lại với UNCLOS. Hai chuyên gia Julian Ku và Christopher Mirasola khẳng định, Trung Quốc không hội đủ điều kiện quy định tại Điều 47 của UNCLOS, vì đất liền Trung Quốc cách xa tít tắp vùng biển họ yêu sách; đồng thời kết luận, trong khi chờ đợi “đường chín khúc” bị quẳng vào thùng rác của lịch sử, khó có thể tin rằng với “Tứ Sa”, Bắc Kinh sẽ đóng một vai trò “khiêm tốn” hơn tại Biển Đông.
Tóm lại, dù là đưa ra yêu sách “đường chín khúc” hay yêu sách “Tứ Sa”, Trung Quốc đều thể hiện tham vọng muốn “độc chiếm” Biển Đông. Và chúng đều là những yêu sách phi lý, bất hợp pháp, không phù hợp với các quy định của pháp luật quốc tế. Thế nhưng, Trung Quốc muốn lợi dụng sự mập mờ để có thể triển khai nhiều cách diễn giải khác nhau trước khi có một tuyên bố chính thức có lợi nhất, trong khi tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động trên thực địa nhằm củng cố quyền kiểm soát trên Biển Đông. Vì thế, các nước, các tổ chức quốc tế cần tỉnh táo, cảnh giác với thủ đoạn lừa bịp này của Trung Quốc.