Cựu Đô đốc Hải quân Mỹ và Tư lệnh tối cao các lực lượng đồng minh Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) Stavridis mới đây đã có bài phân tích về vấn đề Biển Đông đăng trên trang mạng của Bloomberg. Trong những phân tích, nhận định, ông Stavridis cho biết những chứng cứ lịch sử” mà Trung Quốc đưa ra không phải là cơ sở pháp lý để Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền đối với toàn bộ vùng biển này.
TQ đã có những tuyên bố chủ quyền sai trái với phần lớn Biển Đông
Cựu Đô đốc Stavridis đã dành phần lớn sự nghiệp đi biển của mình ở Thái Bình Dương và từng nhiều lần đi qua Biển Biển Đông. Theo ông, Trung Quốc đã có những tuyên bố chủ quyền sai trái đối với phần lớn Biển Đông. Trong bối cảnh quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc ngày càng xấu đi do hai nước liên tục đổ lỗi cho nhau vì đại dịch Covid-19 và Mỹ sắp bước vào một cuộc bầu cử tổng thống, khả năng xảy ra xung đột ở Biển Đông ngày càng lớn. Những tuần gần đây, nhiều tàu chiến của Mỹ trong đó có tàu khu trục USS Barry, con tàu mà cựu Đô đốc Stavridis từng chỉ huy những năm 1990, đã đối đầu với phía Trung Quốc trong khi đang làm nhiệm vụ tuần tra.
Cựu Đô đốc Stavridis giải thích về nguyên nhân vùng biển này lại trở thành một điểm nóng như vậy và có thể làm gì để tránh xảy ra một va chạm có khả năng biến thành xung đột lớn, chính là việc những tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc không có cơ sở. Cơ sở lịch sử để Trung Quốc đưa ra những tuyên bố chủ quyền tại Biển Đông xuất phát từ các chuyến hải trình hồi thế kỷ XV của Đô đốc Trịnh Hòa. Các chuyến thám hiểm Đông Nam Á, Ấn Độ Dương và các vùng biển Arab và châu Phi của Đô đốc Trịnh Hòa đã trở thành huyền thoại tại Trung Quốc. Tuy nhiên, theo ông Stavridis, đây không phải là cơ sở pháp lý để Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối với toàn bộ vùng Biển Đông và coi vùng biển này như “ao nhà” của họ. Lập luận này đã bị tất cả các quốc gia ven Biển Đông và tòa án quốc tế kịch liệt bác bỏ.
Để chống lại những tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc, Hải quân Mỹ đã tiến hành các cuộc tuần tra trên biển trong khuôn khổ chiến dịch tự do hàng hải, nhằm thể hiện rằng đây là vùng biển quốc tế, mà theo cách gọi của luật pháp quốc tế là “biển cả”. Các cuộc tuần tra này có thể gây ra căng thẳng. Một vài thập kỷ trước, khi ông Stavridis còn là một phó đề đốc chỉ huy một nhóm tàu khu trục hoạt động tại vùng biển này, nhiều tàu được ông chỉ huy đã thực hiện các nhiệm vụ tương tự. Nhiệm vụ này bao gồm việc đi qua các vùng biển mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền, mà hiện nay những khu vực này có các đảo nhân tạo do Trung Quốc xây dựng và quân sự hóa bằng cách triển khai các tên lửa, đường băng, súng tầm xa và quân đội. Phía Trung Quốc có thể ra hiệu cho tàu chiến Mỹ dừng lại, đe dọa qua radio, hướng hệ thống radar kiểm soát hỏa lực chính xác vào phía tàu Mỹ, chĩa tên lửa và súng nhằm vào hướng các lực lượng Mỹ và áp sát các tàu của Mỹ ở khoảng cách không thể đảm bảo an toàn.
Cựu Đô đốc Stavridis cho biết, ông đã chỉ đạo thuyền trưởng của các tàu khu trục tiếp tục giữ hướng tàu, tránh xảy ra các va chạm không cần thiết trong khi liên tục báo cáo lên các cấp có thẩm quyền cao hơn. Hồi tưởng lại những trải nghiệm kinh hoàng này, ông Stavridis nói rằng ông cùng các thuyền viên đã thở phào nhẹ nhõm mỗi khi tàu của họ hoàn thành công việc.
Trong những cuộc tuần tra gần đây, tàu USS Barry và một tàu khu trục khác là Bunker Hill đã đối đầu với các tàu của Trung Quốc, nhưng họ đã tránh leo thang căng thẳng. Những động thái như vậy sẽ tiếp tục khiến quan hệ Mỹ-Trung âm ỉ cháy, và chắc chắn sẽ lặp lại thường xuyên hơn trong những năm tới. Các tàu chiến của Mỹ hiện đã tìm ra cách để cân bằng giữa việc bị các tàu của Iran đối đầu và quấy nhiễu tại vùng Vịnh, và họ sẽ cần làm điều tương tự ở Biển Đông, nơi lợi ích của Mỹ còn cao hơn. Điều mấu chốt là Mỹ cần dần dần thay đổi cách hành xử của Trung Quốc mà không phá vỡ mối quan hệ quốc tế này theo cách dẫn tới một cuộc Chiến tranh Lạnh hay một cuộc xung đột vũ trang khác. Cách tốt nhất để làm được điều đó là đưa thêm các đồng minh quốc tế tham gia vào các chiến dịch tự do hàng hải (bao gồm cả các đối tác trong NATO, cùng với Australia và Nhật Bản); tăng cường sự can dự của Mỹ với Đài Loan, đặc biệt là trong lĩnh vực hợp tác quân đội; kiên quyết thực hiện một cuộc điều tra quốc tế tổng thể về đại dịch Covid-19 bùng phát ở Vũ Hán; và xây dựng các quan hệ mạnh mẽ hơn với các quốc gia khác ven Biển Đông.
Biển Đông sẽ thực sự dậy sóng?
Những biện pháp đối đầu này cần đi kèm với những đề nghị hợp tác với phía Trung Quốc. Những đề nghị này có thể bao gồm các thỏa thuận thương mại và thuế quan tiếp theo để giúp Trung Quốc có thể tiếp cận các thị trường của Mỹ sau thỏa thuận thương mại Giai đoạn 1 được hai nước đàm phán ngay trước khi đại dịch xảy ra; hợp tác về các tuyến đường thương mại ở Bắc Cực và các tiêu chuẩn về môi trường tại khu vực này – vốn là điều Bắc Kinh rất mong muốn; thực hiện các chiến dịch nhân đạo chung; xây dựng “các chuẩn mực hành vi” giữa lực lượng hải quân của hai nước (giống như điều mà Nga và Mỹ đang tiến hành); tìm hiểu khả năng ký kết các thỏa thuận kiểm soát vũ khí chiến lược và chiến thuật. Về cơ bản, Mỹ phải đối đấu trong những lĩnh vực cần đối đầu và hợp tác trong lĩnh vực có thể hợp tác. Henry Kissinger từng cảnh báo nhiều tháng trước rằng ông thấy Mỹ và Trung Quốc như thể “đang ở dưới chân đồi của một cuộc Chiến tranh Lạnh”. Cựu Đô đốc Stavridis kết luận rằng, mặc dù thích phép so sánh ẩn dụ dùng hình ảnh núi đồi của ông Kissinger, song theo ông, Mỹ cũng cần nhìn ra biển cả để đánh giá mối quan hệ Mỹ-Trung sẽ trở nên căng thẳng tới mức nào. Ông dự báo Biển Đông sẽ thực sự dậy sóng.