Sau cái gọi là “thành phố Tam Sa”, Trung Quốc lại chuyển qua yêu sách “Tứ Sa”, mới đây nhất là thành lập hai “quận” Tây Sa và Nam Sa để quản lý Hoàng Sa và Trường Sa, cùng các thực thể xung quanh ở Biển Đông. Chưa hết, Bắc Kinh còn công bố “danh xưng tiêu chuẩn” có tọa độ cụ thể cho 80 thực thể ở Biển Đông, trong đó nhiều thực thể nằm dọc theo “đường lưỡi bò” mà Bắc Kinh đơn phương tuyên bố “chủ quyền”. Những việc làm này không có gì khác là Bắc Kinh vẫn quyết tâm theo đuổi yêu sách “đường lưỡi bò” ở Biển Đông. Họ còn quảng bá rùm beng về cái gọi là “phát hiện mới” về “đường chữ U liền nét” do một số học giả Trung Quốc đưa ra cách đây vài năm. Song việc làm đó lại “hớ hênh” để cho “bàn dân thiên hạ” thấy rõ rằng, Bắc Kinh đã bất chấp luật pháp quốc tế, sử dụng mọi “mưu ma chước quỷ” cốt sao để đạt cho được mục đích cuối cùng của mình.
Chuyện là, đầu tháng 4/2018, tờ báo South China Morning Post, tờ nhật báo tiếng Anh do Tập đoàn Alibaba (Trung Quốc) sở hữu, có bài viết giới thiệu về một “công trình nghiên cứu” của 6 học giả dưới sự bảo trợ của Chính phủ Trung Quốc về cái gọi là bản đồ “đường chữ U liền nét”. Những học giả này tỏ vẻ hân hoan với “khám phá mới” và cho rằng, “đường chữ U liền nét”, hay còn được biết đến với tên gọi là “đường lưỡi bò” mà Trung Quốc đã công khai tuyên bố là “chủ quyền” của họ ở Biển Đông với thế giới năm 2009, có thể được coi là biên giới trên biển của Trung Quốc.
Điều cần lưu ý là, chuẩn tắc cơ bản, thông dụng trên thế giới khi thể hiện biên giới quốc gia trên bản đồ phải là đường liền nét. Thế nhưng, yêu sách “đường lưỡi bò” hay còn gọi là “đường chữ U” hoặc “đường chín khúc” của Trung Quốc đều là đường đứt rời. Vì thế, đường vẽ này không thể gọi là đường biên giới quốc gia được. Chắc có lẽ vì lý do đó nên các nhà nghiên cứu Trung Quốc, được sự hỗ trợ và khích lệ từ chính phủ đã cố gắng tìm kiếm và “phát hiện mới” được tấm bản đồ liền nét để khắc phục điểm yếu này.
Đọc kỹ bài báo gốc đăng trên Tạp chí Khoa học Trung Quốc tháng 3/2017 mới thấy điều thú vị về sức tưởng tượng của các học giả Trung Quốc. Những gì được nêu ra trong bài báo đó thêm một lần nữa bóc trần sự “bất chấp” tính khách quan và chân thực của khoa`học và lịch sử lại bị “cưỡng ép” bởi các học giả Trung Quốc, những người đã bỏ qua các chuẩn mực đạo đức hàn lâm để phục vụ tuyên truyền chính trị. Việc công bố bài báo cũng cho thấy, Trung Quốc có thể vẫn đang nỗ lực nuôi hi vọng để cứu vãn “đường lưỡi bò” khi yêu sách này đã bị cả thế giới phản đối và Tòa Trọng tài thường trực quốc tế về Luật Biển (PCA) thẳng thừng bác bỏ vào tháng 7/2016.
Trước tiên, điều hết sức “nực cười” là các nhà khoa học Trung Quốc đã nỗ lực tìm kiếm và tự tin cho rằng, “bằng chứng không thể chối cãi khẳng định chủ quyền Biển Đông của Trung Quốc” là một bản đồ phụ nằm ở góc của một bản đồ mang tên “Bản đồ phân khu hành chính toàn quốc” xuất bản năm 1951 bởi Quang Hoa và Hội Khoa học địa chất. Rất may là thế giới đã sáng chế ra kính lúp để các nhà khoa học Trung Quốc có thể phóng đại bản đồ đó lên để biến nó thành một bằng chứng cho cái gọi là “chủ quyền” của Trung Quốc(!).
Tất nhiên, rất nhiều câu hỏi đặt ra về tính xác thực của sự “khai quật” này, bởi lẽ đơn giản là Trung Quốc là quốc gia rộng lớn và có tính “sáng tạo” rất cao. Xưa nay, Trung Quốc luôn khẳng định tìm thấy nhiều cổ vật từ “ngàn xưa” ở các khu vực Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, trong khi các phát hiện khảo cổ lại cho thấy, Trung Quốc biết đến những vùng này khá muộn so với các nước khác. Tại một số cuộc hội thảo, nhiều học giả chân chính của Trung Quốc đã thừa nhận rằng, Trung Quốc là nước công bố chậm nhất trong khi các nước khác đã tiến hành quản hạt và khai thác từ lâu ở Biển Đông, hơn nữa những công bố của Trung Quốc về chủ quyền ở khu vực biển này đều rất mơ hồ về giới hạn địa lý, nên bị đuối lý về thời gian và pháp lý; đuối lý cả về khái niệm “biển nội địa” và “biển ngõ”. Thật đúng là đôi khi Trung Quốc chỉ cần nói lấy được.
Chưa cần nói đến tính xác thực và chính xác của tấm bản đồ trên, đã có thể thấy một số điểm phi lý trong lập luận của các học giả Trung Quốc, đó là tấm bản đồ đã phát hiện không đủ yếu tố cấu thành đường biên giới biển vì các lý do: (1) Việc phân định, xác định biên giới phải được thực hiện thông qua đàm phán, ký kết bằng điều ước quốc tế giữa các quốc gia liên quan. Các tuyên bố đơn phương của một quốc gia về đường biên giới với một quốc gia khác hoàn toàn không có giá trị pháp lý. Như giáo sư Carl Thayer – Học viện Quốc phòng Australia đã chỉ rõ, bản đồ đơn phương không có giá trị khẳng định chủ quyền quốc gia trong luật pháp quốc tế trừ phi nó đi liền với một hiệp định quốc tế hoặc một văn kiện hành chính có giá trị pháp lý trong nước và quốc tế. (2) Bản đồ trên không phải của Chính phủ Trung Quốc phát hành mà nó là của một hiệp hội chuyên ngành, Hội Khoa học địa chất. Do đó, phát hiện này nếu có thì cũng không thể trao cho Trung Quốc một chứng cứ lịch sử có giá trị, càng không thể tạo ra một đường biên giới trên Biển Đông. Nói cách khác, nguồn gốc tấm bản đồ mập mờ như “ma trận”.
Thứ hai, họa hình vẽ trong tấm bản đồ đó rất tùy tiện, lộn xộn và lệch lạc. Có thể thấy, các học giả Trung Quốc không bỏ qua bất cứ cách thức nào để có thể chứng minh định đề có sẵn trong tư duy của họ. Nghiên cứu của nhóm học giả cho rằng, “đường chữ U liền nét” trong tấm bản đồ năm 1951 được vẽ bởi hai đường, một đường màu đen được cho là đường biên giới theo chuẩn do Nhà xuất bản Bản đồ Trung Quốc quy ước và một đường màu đỏ được nhóm nghiên cứu chỉ ra là “đường phân khu hành chính”.
Như vậy, các học giả Trung Quốc có công lớn trong việc “gia công” cẩn thận bản đồ này khi đưa kèm theo các chú thích tỉ mỉ về “ký hiệu đường biên giới” hay “đường phân khu hành chính” nhằm ý đồ chứng minh “đường chữ U liền nét” chính là đường biên giới trên biển của Trung Quốc. Tuy nhiên, khi nhìn vào tấm bản đồ, người ta sẽ thấy hai đường màu đen và màu đỏ mà các học giả Trung Quốc gọi là “đường biên giới” đó chỉ là những nét vẽ hết sức tùy tiện.
Câu hỏi đặt ra là tại sao một đường biên giới nhưng lại được thể hiện qua hai đường khác nhau và nếu hai đường này là một thì lý do gì khiến chúng không trùng nhau? Giả sử như nhóm học giả này lập luận rằng, công nghệ vẽ bản đồ thời điểm đó còn chưa phát triển, thì cũng không thể có một đường biên giới quốc gia được vẽ bằng hai đường với các khoảng cách khác nhau, chỗ sát vào nhau và chỗ cách xa nhau. Với tỷ lệ tấm bản đồ là 1:30.000.000 như các học giả này đề cập thì khoảng cách giữa những vị trí sai lệch cũng có thể lên đến hàng chục hải lý.
Không những thế, đường này còn được vẽ một cách tùy tiện đến mức đường khung viền bên dưới của tấm bản đồ cắt ngang cả “đường chữ U” – cái mà nghiên cứu này cho là “đường biên giới quốc gia” trên biển, khiến “đường chữ U” bị “lẹm” đi một phần đáng kể.
Thứ ba, ma trận “đường chữ U liền nét” rối mù. Trung Quốc vẫn thường nhắc đến những chứng cứ như “đường lưỡi bò” xuất hiện lần đầu từ năm 1914 do một người có tên là Hu Jinjie vẽ, thế nhưng đến nay vẫn không tìm thấy; hay tấm bản đồ nét liền do Bai Meichu vẽ năm 1936 (tác phẩm cá nhân); và chứng cứ được cho là chính thức nhất là tấm bản đồ nét đứt năm 1948 do Trung Hoa Dân quốc xuất bản. Điểm chung của các tấm bản đồ này là không có địa điểm và tọa độ địa lý chính xác cho các vị trí, các đoạn. Tất nhiên, Trung Quốc có lý do để không xác định tọa độ chính xác của các điểm, tránh “mua dây buộc mình” để còn dễ bề xoay xở?
“Đường lưỡi bò” như đã biết, khi thì được Trung Quốc vẽ với 11 nét, 9 nét, có lúc lại là 10 nét. Tuy nhiên, từ năm 1947 trở lại đây, người ta vẫn thường trích dẫn “đường chữ U” là một đường đứt đoạn. Nay lại có thêm một “sáng kiến” nối liền các đoạn đứt lại với nhau. Tất nhiên, khi nối lại thì các học giả Trung Quốc lại buộc phải tìm ra lý thuyết để giải thích sự biến dạng liên tục của “đường chữ U” trong lịch sử. Thú vị nhất là việc các học giả Trung Quốc đưa ra cách giải thích mới rằng, “đường chữ U” đứt đoạn phản ánh “nước biển luôn chuyển động”. Điều đó có nghĩa là “đường chữ U liền nét” sẽ là biểu hiện nước biển bất động (?). Cách bao biện như vậy hoàn toàn phản khoa học. Tuy nhiên, các học giả Trung Quốc có vẻ cố tình “lờ” đi rằng, trong lịch sử, Trung Quốc là một cường quốc lục địa hơn là cường quốc biển, Trung Quốc chưa bao giờ coi vùng biển là lãnh thổ quốc gia. Hầu hết các bản đồ của Trung Quốc trước thế kỷ XX đều coi cực Nam lãnh thổ Trung Quốc xa nhất là Hải Nam. Trên thực tế, tại thời điểm năm 1951, Biển Đông vẫn là một vùng biển mở, các nước ven biển có quyền đánh bắt cá, khai thác tài nguyên, tàu thuyền của các quốc gia khác có quyền tự do đi lại qua đây.
Thứ ba, “phát hiện mới” này rất ngụy biện, lập lờ và phi pháp. Điểm mấu chốt là nghiên cứu không làm rõ thêm căn cứ, cũng như yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông. Dù “đường chữ U liền nét” có giá trị ước lệ ra sao, dư luận quốc tế vẫn muốn Trung Quốc công khai quan điểm về vị trí chính xác cũng như quy chế pháp lý của vùng nước bên trong “đường chữ U liền nét”. Tuy nhiên, công bố của học giả Trung Quốc thể hiện sự lộn xộn và thiếu nhất quán về pháp lý. Việc sử dụng thuật ngữ “biên giới trên biển” hàm nghĩa Trung Quốc có thể đòi hỏi chủ quyền với vùng biển đó giống như lãnh thổ trên đất liền. Trong bài báo, các tác giả cho rằng, các tàu thuyền có thể “qua lại vô hại ở khu vực này”, hàm ý họ coi khu vực này như là “lãnh hải” của Trung Quốc. Bối rối hơn, trả lời phỏng vấn báo South China Morning Post, các học giả lại cho rằng, Trung Quốc có quyền đối với tài nguyên thiên nhiên trong vùng biển, còn các nước khác có quyền “tự do đi lại”, hàm ý vùng nước này có giá trị như vùng đặc quyền kinh tế theo định nghĩa của UNCLOS 1982.
Tất cả các lập luận của Trung Quốc hòng bảo vệ yêu sách trên cho đến nay đều không có cơ sở pháp lý vững chắc. Dù là “đường chữ U liền nét” được cho là gì và ở đâu, tất cả các diễn giải đều không phù hợp với luật pháp quốc tế. Phán quyết của PCA năm 2016 đã khẳng định yêu sách lịch sử trong phạm vi “đường lưỡi bò” là trái với UNCLOS 1982 mà Trung Quốc là thành viên. Tiến sỹ Ian J.Storey, nghiên cứu viên cao cấp tại Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Singapore cho rằng, nếu Trung Quốc chính thức công bố cái gọi là “đường biên giới chữ U liền nét” trên Biển Đông như đề xuất của nhóm học giả trên thì sẽ được coi là sự bác bỏ hoàn toàn đối với phán quyết của PCA năm 2016.
Thứ tư, câu hỏi lớn nhất là tại sao các học giả và báo chí Trung Quốc lại đưa tin “rùm beng” về “phát hiện vĩ đại” của họ vào thời điểm trên và mục đích của họ là gì?
Sau vụ kiện của Philippines đối với Trung Quốc trên Biển Đông, Bắc Kinh một mặt ra sức công kích các thẩm phán và phớt lờ phán quyết, mặt khác, tìm mọi cách, trong đó có cả việc sử dụng các nhà khoa học để tìm cách chứng minh cho yêu sách đã bị phán quyết của PCA bác bỏ. Trên thực địa, Trung Quốc tiếp tục đẩy mạnh quân sự hóa và gia tăng xâm nhập vào vùng biển của các quốc gia khác. Xâu chuỗi các diễn tiến và sự kiện cho thấy, phán quyết của PCA năm 2016 là một trong những trở ngại lớn đối với Trung Quốc trên con đường tìm cách “độc chiếm” Biển Đông. Trước sức ép mạnh mẽ của dư luận quốc tế, Trung Quốc sử dụng cách tiếp cận “thử đẩy” hơn là “quyết đoán” như trước. Việc đẩy mạnh sử dụng kênh “học giả” để tìm cách “lật lại” quyết định của PCA cho thấy, Trung Quốc vẫn tìm cách “hà hơi thổi ngạt” cho “đường lưỡi bò” đang dần “chết yểu” bởi tính chất phi lý của nó.
Thứ năm, qua việc công bố “phát hiện mới” nói trên, có nhiều ý kiến cho rằng, đây chỉ là đòn hỏa mù của Trung Quốc giống như các động thái trước. Tháng 9/2017, Trung Quốc cũng đã tung ra khái niệm “Tứ Sa” nhằm thăm dò dư luận nhưng đã bị dư luận quốc tế và khu vực phản đối mạnh mẽ. Hiện nay, Trung Quốc dường như lại đang sử dụng con bài học giả để tiếp tục thử chiếc “bình mới” mang tên “bản đồ năm 1951” nhưng thực chất bên trong vẫn chỉ là “rượu cũ” như những gì Trung Quốc từng yêu sách.
Tuy nhiên, điều đáng lo ngại là Trung Quốc có thể trở thành nạn nhân của trí tưởng tượng của chính họ, từ đó có các hành động gây tổn hại đến hòa bình và ổn định ở khu vực. Về góc độ nội bộ, Trung Quốc có thể sử dụng kết quả nghiên cứu trên để “trang trải” và trấn an dư luận trong nước sau thất bại thê thảm tại PCA. Nhưng một ngày nào đó, Trung Quốc có thể ngộ nhận cái họ ngụy tạo để chi phối tư duy và hành động. Theo đó, nếu Trung Quốc tiếp tục thúc đẩy và chính thức hóa yêu sách “đường chữ U liền nét”, các nước khác sẽ không còn cách nào khác phải viện đến công cụ pháp lý để kiện Trung Quốc.
Thứ sáu, đây có thể coi là một nỗ lực vô vọng của Trung Quốc. Dưới sự tài trợ và ủng hộ của Chính phủ Trung Quốc, các học giả có lẽ sẽ tiếp tục cần mẫn tìm kiếm và ngụy tạo các chứng cứ lịch sử trên danh nghĩa khoa học. Tấm bản đồ năm 1951 không phải lần đầu và cũng có lẽ không phải là điểm chấm hết cho cả một tiến trình đã bắt đầu từ rất lâu. Nếu tiếp tục cố chấp với lỗi lầm của mình, Trung Quốc sẽ tiếp tục lúng túng và bế tắc, càng cố càng sai, càng giải thích càng đi sâu vào ngõ cụt. “Đường chữ U” dù đứt đoạn hay liền nét đều không mang lại chủ quyền và hữu hảo, mà chỉ mang lại cho Trung Quốc sự bất mãn của láng giềng và sự ghẻ lạnh của thế giới.
Do vậy, dù Trung Quốc có cố gắng đến đâu cũng không thể phản bác được các bằng chứng lịch sử thể hiện chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nước biển có thể động, nhưng không thể thay đổi sự thật lịch sử rằng, Trung Quốc đã sử dụng vũ lực để cưỡng đoạt Hoàng Sa năm 1956, 1974 và một số thực thể ở Trường Sa từ Việt Nam năm 1988. Dù Trung Quốc có “phát hiện mới” thêm nhiều di vật lịch sử cũng không thể bác bỏ được chủ quyền và quyền chủ quyền của các quốc gia khác với vùng biển lân cận theo quy định của UNCLOS 1982. Dù Trung Quốc có thể mạnh, nhưng họ cũng không thể bẻ cong được luật pháp quốc tế và không thể mua chuộc được dư luận quốc tế.
Câu chuyện một số nhà nghiên cứu của Trung Quốc đưa ra “phát hiện mới” về bản đồ “đường chữ U liền nét” một lần nữa cho thấy tham vọng “độc chiếm” Biển Đông của Trung Quốc chưa bao giờ phai nhạt, cho dù đã bị dội một gáo nước lạnh với phán quyết của PCA năm 2016. Trung Quốc vẫn ráo riết tìm mọi cách thực hiện trên thực tế để biến “đường lưỡi bò” thành hiện thực. Và một trong những cách đó là họ đã “phát hiện” ra bản đồ có “đường chữ U liền nét” mà họ nói rằng đã xuất bản từ năm 1951. Tuy nhiên, bản chất của cái gọi là yêu sách “đường lưỡi bò” của Trung Quốc không hề có tính chất pháp lý nào, nên dù có biện minh kiểu gì đi nữa cũng không được luật quốc tế chấp nhận và đương nhiên, nó sẽ không có chỗ đứng trong luật quốc tế. Mặc dù, Trung Quốc với sức mạnh đang lên, mưu toan “đổi trắng thay đen”, nhưng điều này không thể làm được trong thế giới hiện đại. Vì thế, mọi tuyên bố không có nền tảng luật quốc tế như “đường lưỡi bò”, dù liền nét hay đứt khúc, cũng không bao giờ được luật pháp quốc tế công nhận, Trung Quốc hãy nhớ điều đó!.