Trên cơ sở phân tích sự vận động của cấu trúc an ninh tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương và tác động tới Việt Nam những năm tới;
Thiếu tướng, TS Đỗ Lê Chi đã đưa ra một số khuyến nghị chính sách nhằm góp phần tạo nên những điều kiện bảo đảm lợi ích và an ninh quốc gia Việt Nam trong cuốn sách “Việt Nam trước tác động của cấu trúc an ninh tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương” được Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản.
1. Giữ vững môi trường an ninh
Mục tiêu nhất quán và xuyên suốt của Việt Nam là duy trì và bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định; tạo các điều kiện thuận lợi cho công cuộc xây dựng, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Chủ trương đối ngoại lớn của Việt Nam là đa phương hóa, đa dạng hóa; chủ động hội nhập toàn diện; tham gia có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế. Quán triệt đầy đủ và triển khai có hiệu quả chủ trương nói trên trong lĩnh vực an ninh đối ngoại là yếu tố bảo đảm cho Việt Nam tham gia tích cực và thúc đẩy tiến trình vận động của cấu trúc an ninh tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương phù hợp với lợi ích quốc gia.
Do tầm quan trọng và tác động của cấu trúc an ninh đối với lợi ích quốc gia, để giữ vững môi trường an ninh tại khu vực, Việt Nam cần chủ động tác động vào tiến trình vận động của cấu trúc theo những cách thức phù hợp. Một số công tác chính mà Việt Nam cần làm trong những năm tới là:
Tác động thúc đẩy định dạng cấu trúc phù hợp với lợi ích quốc gia
Việt Nam cần tác động vào tiến trình vận động của các bộ phận thiết yếu, tạo nên một cấu trúc với định dạng phù hợp hơn trong bảo đảm môi trường an ninh của quốc gia. Nỗ lực của Việt Nam cần theo hướng tác động để khu vực có được cấu trúc an ninh theo định dạng ở kịch bản 3, là kịch bản tốt nhất. Trong ba điều kiện để kịch bản này thành hiện thực, điều kiện (i) là quan trọng nhất và sẽ còn tồn tại trong vài năm tới, song điều kiện (ii) và (iii) còn yếu. Tuy nhiên, đây là những việc mà ASEAN có thể làm, và cần đến vai trò đi đầu của nước lớn trong ASEAN với những sáng kiến mạnh dạn, phù hợp.
Dạng thức cấu trúc phù hợp cần quan tâm giải quyết được cả những vấn đề an ninh truyền thống và phi truyền thống, trực tiếp với Việt Nam trước hết là giúp xử lý tranh chấp tại Biển Đông và các vấn đề an ninh tại Tiểu vùng sông Mekong trên cơ sở lợi ích chung toàn khu vực, bảo đảm lợi ích hợp pháp của từng quốc gia, dựa trên luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc, Hiến chương ASEAN. Các quy tắc, quy định về hoạt động của các cơ chế, khuôn khổ trong cấu trúc đó được xây dựng trên những tiêu chí căn bản đó và được sự nhất trí của các bên tham gia cấu trúc đó.
Để hiện thực hóa kịch bản 3, Việt Nam cần chủ động thúc đẩy hình thành những khuôn khổ, cơ chế hợp tác an ninh đa phương thực chất tại khu vực, có sự tham gia của các nước lớn tại khu vực, trực tiếp là Mỹ và Trung Quốc.
Với bức tranh phân bố ảnh hưởng của hai siêu cường tại khu vực, nhất là ở Đông Nam Á như hiện nay, Việt Nam cần thúc đẩy những hoạt động tạo nên sự cân đối ảnh hưởng nước lớn trên toàn khu vực nói chung, tại Đông Nam Á nói riêng, nhất là tại Tiểu vùng sông Mekong. Các cơ chế hợp tác do ASEAN làm trung tâm tại khu vực cần phát huy được mặt thuận, hạn chế được mặt nghịch giữa các tiến trình triển khai chiến lược nước lớn và tập hợp lực lượng do Mỹ và Trung Quốc dẫn dắt, kết nối phát triển và an ninh Đông – Tây, trong đó phát huy được vai trò của cường quốc khu vực, nhất là Nhật Bản và Ấn Độ; và coi trọng giải pháp “đa phương” trong xử lý các vấn đề an ninh nổi lên tại khu vực.
Phát huy hơn nữa vai trò của các cơ chế hợp tác an ninh khu vực do ASEAN làm trung tâm, dựa trên luật pháp quốc tế để ngăn chặn xung đột
Các cơ chế hợp tác an ninh khu vực mà ASEAN có vai trò quan trọng như EAS, ARF, ADMM+ và EAMF cần được phát huy hiệu quả trong ngăn chặn xung đột tại các “điểm nóng” ở khu vực, đặc biệt là Biển Đông, nhất là trong thời gian 2020 – 2021 khi Việt Nam có một địa vị quốc tế thuận lợi. ADMM+ hiện là cơ chế trực tiếp nhất cho việc này, tuy nhiên tác dụng của nó có nhiều hạn chế do hình thức tổ chức, vận hành còn lỏng lẻo.
Cần từng bước chuẩn bị nâng cấp khuôn khổ ADMM+ thành một cơ chế chặt chẽ hơn về tổ chức và những quyết định của ADMM+ có tính hiệu quả cao hơn. Các triển vọng thiết lập cơ chế hợp tác an ninh tập thể, ràng buộc cần xuất phát từ ADMM+ trong khi thúc đẩy các hoạt động cùng chiều tại EAMF, ARF, EAS và những cơ chế khác.
Việt Nam cần đặt tầm quan trọng thực sự vào công cụ pháp lý trong giải quyết các tranh chấp, bất đồng trong không gian sinh tồn của mình. Trong quan hệ quốc tế, nước lớn thường dựa vào tình trạng “bất đối xứng” và lợi dụng công thức “song phương” sử dụng ưu thế vượt trội để áp đặt giải pháp lên nước nhỏ, đồng thời nuôi dưỡng mẫu thuẫn, bất hòa giữa các nước nhỏ, thực hiện “chia để trị”.
Các tranh chấp giữa các nước ASEAN với nhau, trong đó có những vấn đề giữa Việt Nam với các nước ASEAN láng giềng trên bộ và trên biển, có thể bị nước lớn lợi dụng gây bất hòa trong ASEAN và khó khăn cho Việt Nam. Trong tình hình mới và với vị thế quốc tế mới, Việt Nam cần chọn lựa, chủ động thúc đẩy giải quyết bằng pháp lý một số vấn đề tranh chấp, bất đồng của mình và giữa các nước ASEAN, củng cố tiền lệ đã có, tạo thành xu thế chính trong xử lý tranh chấp, bất đồng tại khu vực.
Đối với tranh chấp Biển Đông, Việt Nam cần tham khảo sâu sắc cách thức mà Philíppin đã tiến hành và đạt kết quả tốt cho vụ kiện Trung Quốc lên Tòa trọng tài đối với tính pháp lý của “đường chín đoạn” của Trung Quốc và tình trạng của các cấu trúc tại Trường Sa, kéo theo phạm vi hải phận được hưởng của các cấu trúc đó.
Đây là công thức tích cực mà Việt Nam có thể vận dụng đối với tình trạng của Hoàng Sa. Tình hình tại bãi Tư Chính ở nửa sau năm 2019 cũng đặt Việt Nam vào một thế cần cân nhắc sử dụng công cụ pháp lý này để có thể đối phó hiệu quả hơn với Trung Quốc.
Thúc đẩy hình thành cơ chế an ninh tập thể, ràng buộc về pháp lý tại khu vực, trực tiếp là tại Đông Nam Á
Cọ xát chiến lược ngày càng gay gắt tất yếu sẽ dẫn tới sự ra đời của những thiết chế an ninh tập thể ràng buộc tại khu vực để giúp kiểm soát, xử lý xung đột, bảo vệ lợi ích của các bên liên quan. Trên thực tế, cả Mỹ và Trung Quốc đều không muốn bị ràng buộc bởi những định dạng tổ chức loại này, tuy nhiên những cơ chế, khuôn khổ như thế giúp bảo đảm lợi ích của các nước nhỏ tại Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam; và điều này cũng được những cường quốc khu vực như Nhật Bản, Ấn Độ, Ôxtrâylia và Nga ủng hộ nhằm giúp kiềm chế cả Trung Quốc và Mỹ. Đây là điều mà Việt Nam cần nắm bắt, chủ động thúc đẩy khi ở cương vị quốc tế mới thông qua các cách thức phù hợp, trong đó yếu tố quan trọng nhất là tạo nên sự thống nhất chung trong ASEAN.
Những cơ chế an ninh tập thể, ràng buộc nói trên cần trực tiếp giúp kiềm chế, quản lý và xử lý khủng hoảng, xung đột tại Đông Nam Á, nhất là tại Biển Đông. ASEAN đang nỗ lực thuyết phục 5 cường quốc hạt nhân (P5 thuộc Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc) tham gia Hiệp ước khu vực Đông Nam Á phi vũ khí hạt nhân, và thương lượng với Trung Quốc để có một Bộ Quy tắc về ứng xử trên Biển Đông, tuy nhiên cả hai nỗ lực trên đều chưa thành do lợi ích của các bên còn nhiều khác biệt, chưa thể tìm được tiếng nói chung.
Thời gian tới, khi khả năng xung đột tăng lên sẽ tạo thêm điều kiện để đạt được những thỏa thuận nói trên. ASEAN nói chung, Việt Nam nói riêng còn cần tính toán xa hơn nữa, hướng tới một thỏa thuận thành lập một tổ chức hợp tác quân sự đa phương tại Đông Nam Á để các bên đều có thể bảo vệ lợi ích quốc gia, đồng thời hợp tác trong khuôn khổ để bảo vệ môi trường an ninh chung. Xét về mặt địa – chiến lược, Việt Nam hoàn toàn có thể đóng vai trò chủ động với tư cách quốc gia, chủ trì trong ASEAN với tư cách nước thành viên để thúc đẩy tiến trình này, thậm chí là một địa điểm thuận lợi để có thể thiết lập căn cứ đóng quân của một lực lượng đa quốc gia vì lợi ích chung.
Tuy nhiên, điều này cũng đòi hỏi Việt Nam cần có những thay đổi quan trọng trong cách hiểu và triển khai chính sách an ninh, đối ngoại “ba không” truyền thống cho phù hợp nhằm bảo đảm có được sự hợp tác đủ mạnh để bảo vệ các lợi ích quốc gia – dân tộc trong những tình huống bị đe dọa, không để rơi vào tình trạng bị cô lập, đơn lẻ. Cần phân biệt rõ bên cạnh việc duy trì nguyên tắc truyền thống không liên minh, đồng minh với một bên nào để chống lại một bên khác, song Việt Nam sẵn sàng hợp tác với một hoặc nhiều bên vì lợi ích an ninh chung của toàn khu vực, và Việt Nam có quyền làm mọi điều trong chủ quyền của mình để bảo vệ độc lập, toàn vẹn lãnh thổ trong phạm vi phù hợp với luật pháp quốc tế.
Một khuôn khổ an ninh tập thể với những cơ chế có tính bắt buộc với các bên tham gia là phù hợp với lợi ích của tất cả các bên có liên quan. Việt Nam cần điều chỉnh cách tiếp cận và chủ động phát huy ưu thế địa – chiến lược của mình trong tình hình mới, hướng tới tạo nên sự thống nhất trong ASEAN thông qua hợp tác chặt chẽ với những thành viên then chốt trên từng vấn đề, phạm vi để tác động lên các thành viên còn lại, đồng thời tranh thủ tác động, ảnh hưởng từ nước lớn có cùng lợi ích và trực tiếp liên quan vì lợi ích quốc gia và phù hợp với lợi ích chung.
2. Bảo đảm không gian phát triển
Bảo đảm không gian phát triển thuận lợi và bền vững là yêu cầu đặc biệt quan trọng đối với triển vọng phát triển của đất nước. Không gian phát triển thiết yếu đối với Việt Nam trước hết là Đông Nam Á, trực tiếp là Biển Đông và Tiểu vùng sông Mekong.
Mục tiêu đặt ra là Việt Nam duy trì và phát huy được khả năng khai thác, phát triển được lợi ích bền vững trong không gian phát triển thiết yếu đó, đồng thời phát triển, mở rộng các không gian bên ngoài Đông Nam Á với những đối tác chủ yếu bên ngoài Đông Nam Á trong những khuôn khổ có tính bền vững và bổ khuyết cho nhau. Trên vấn đề này, Việt Nam cũng có ưu thế đặc thù để có thể đóng vai trò rất quan trọng đối với toàn khu vực. Một số vấn đề Việt Nam cần chú trọng thúc đẩy trong những năm tới là:
Hợp tác phát triển kinh tế biển hiệu quả và bền vững
Phạm vi lợi ích kinh tế biển của Việt Nam là tương đối rộng so với quan niệm phổ thông. Các nhà hoạch định chính sách kinh tế biển của Việt Nam lâu này chủ yếu chú trọng đến lợi ích kinh tế ở bờ biển cho đến phạm vi khu vực đặc quyền kinh tế trên thềm lục địa tính từ đường cơ sở theo luật quốc tế. Tuy nhiên, “kinh tế biển” bao gồm ba thành phần chính, gồm nền kinh tế các tỉnh ven biển, trong phạm vi khu vực đặc quyền kinh tế và lợi ích kinh tế trên đại dương – là tài sản chung của tất cả các nước có biển và không có biển.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XII, ngày 22/10/2018 (Nghị quyết số 36-NQ/TW) về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đánh giá việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa X về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 là không đạt yêu cầu, chủ yếu là do các nguyên nhân chủ quan. Tuy nhiên, việc triển khai Nghị quyết số 36-NQ/TW liệu có khắc phục những yếu kém được nêu trên để đạt được những mục tiêu đề ra hay không còn là vấn đề lớn.
Ba trong số các lý do khách quan đã cản trở việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa X là: (i) Việt Nam bị chèn ép ngay tại khu vực thuộc chủ quyền của mình, không thể triển khai được các lợi ích chủ yếu như khai thác dầu khí trên thềm lục địa của mình, (ii) đầu tư của Trung Quốc hoặc có yếu tố Trung Quốc tại nhiều địa phương ven biển của Việt Nam gây ảnh hưởng xấu đến môi trường sinh thái biển, triệt tiêu các yêu cầu cho phát triển bền vững, và (iii) Hành động xâm lấn trái phép của Trung Quốc tại Biển Đông, trong đó có hoạt động bồi đắp đảo nhân tạo ở Trường Sa, phá hoại ngư trường truyền thống, ngăn chặn hoạt động nuôi trồng, khai thác hải sản hợp pháp của ngư dân Việt Nam.
Đáng chú ý là cả ba yếu tố này có thể sẽ tiếp tục diễn ra trong 10 năm tới theo chiều hướng gay gắt hơn.
Để giúp duy trì được không gian kinh tế biển, bên cạnh việc khắc phục những nguyên nhân chủ quan đã nêu, vấn đề lớn nhất là ngăn chặn có hiệu quả những yêu sách và hành động bất hợp pháp của Trung Quốc. Trong khi việc xử lý vấn đề thông qua con đường đơn phương (tự Việt Nam), song phương (Việt – Trung) đều không khả thi, giải pháp còn lại chỉ có thể là hợp tác quốc tế, dựa trên nền tảng luật pháp quốc tế, tạo nên sức mạnh quốc tế. Điều này đòi hỏi Việt Nam trước hết phải cho thấy được sự nghiêm túc và chủ động của quốc gia trong việc tôn trọng và thực thi các cam kết với luật pháp quốc tế, đồng thời tích cực sử dụng công cụ pháp lý trong xử lý vấn đề. Đây là điểm liên quan đến chủ quyền thực chất, theo luật của Việt Nam ở Biển Đông được xác định căn cứ Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982.
Bên cạnh đó, Việt Nam cần hết sức chú trọng đến việc chọn lựa nhà đầu tư vào các cơ sở phát triển kinh tế biển của Việt Nam. Việc Trung Quốc triển khai BRI có thể mang lại cho nhiều nước có nền kinh tế nhỏ, có bờ biển, sự hấp dẫn to lớn từ vốn đầu tư và những điều kiện dễ dãi, tuy nhiên cũng đã có nhiều bài học lớn từ một số nước nhỏ về “bẫy nợ”, “bãi rác”, môi trường bị hủy hoại từ đầu tư của Trung Quốc mà tác động của nó là toàn diện, sâu sắc và lâu dài đối với vận mệnh của một quốc gia.
Việc chọn nhà đầu tư có chung lợi ích, có tiềm năng bảo vệ lợi ích của họ hoặc của đồng minh của họ trong hợp tác với Việt Nam có ý nghĩa rất quan trọng để bảo đảm và phát huy lợi ích biển của Việt Nam trong phạm vi phù hợp với luật quốc tế.
Việt Nam cũng cần tính toán vươn tới phạm vi đại dương để phát huy lợi ích biển của quốc gia, nhất là trong bối cảnh nguồn lợi ở biển gần dần cạn kiệt và các tranh chấp lợi ích ngày càng phức tạp. Điều này đòi hỏi Việt Nam cần tìm kiếm và tham gia những khuôn khổ hợp tác trên biển rộng lớn hơn, theo cách mà Việt Nam tham gia các thỏa thuận thương mại đa phương trong những năm qua nhằm thoát khỏi thế bị bao vây, lệ thuộc về kinh tế vào một vài nước. Các thỏa thuận nghiên cứu chung trên biển và đại dương với một số nước có chung lợi ích chiến lược có thể là những bước đi phù hợp đầu tiên.
Thúc đẩy sự can dự thực chất, có phối hợp của các nước lớn tại Tiểu vùng sông Mekong
Đây là cách thức cần thiết để giúp xây dựng không gian phát triển cân đối, lành mạnh tại Tiểu vùng sông Mekong theo hướng cân bằng ảnh hưởng của Mỹ và Trung Quốc, và huy động được sự can dự sâu sắc hơn, có phối hợp của Nhật Bản, Ấn Độ và các quốc gia, tổ chức quốc tế khác tại đây. Điều này đòi hỏi nhiều điều kiện từ nhiều phía, song quan trọng nhất vẫn là sự thống nhất nhận thức và phối hợp hành động trong AM-5 về lợi ích an ninh, chính trị bền vững của cả nhóm trong so sánh với lợi ích kinh tế đơn lẻ, ngắn hạn.
Trong các cơ chế hợp tác tiểu vùng hiện có, ba cơ chế rất quan trọng với Việt Nam gồm Sáng kiến tam giác phát triển Campuchia – Lào – Việt Nam (CLV), Hội nghị cấp cao Campuchia – Lào – Mianma – Việt Nam và Tổ chức Chiến lược hợp tác kinh tế Ayeyarwady – Chao Phraya – Mekong là khuôn khổ duy nhất có mặt đầy đủ các nước AM-5. Đây chính là những cơ chế tác động trực tiếp nhất tới lợi ích của Việt Nam trên cả ý nghĩa “nội khối” lẫn ý nghĩa làm “trung tâm” cho hợp tác với đối tác ngoài ASEAN.
Việt Nam cần tập trung hơn cho các cơ chế này, đặc biệt là CLV, phát huy thực chất hiệu quả hợp tác nội khối của chúng để duy trì và tôn tạo không gian sinh tồn của mình, đồng thời tăng cường cơ sở cho đồng thuận trong AM-5 trước các vấn đề của ASEAN.
Với tình trạng nhỏ lẻ và tách rời như hiện nay của các cơ chế đã có giữa Tiểu vùng sông Mekong với đối tác bên ngoài (Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc), việc quan trọng hàng đầu là cần gắn kết các cơ chế trên với nhau nhằm tăng cường sức mạnh và hiệu quả hơn.
Việt Nam cần chủ động thúc đẩy hướng này, ví như tạo cơ chế (+), như CLV+ Mỹ/Nhật Bản/Ấn Độ, CLV + Mỹ + Nhật Bản + Ấn Độ…để từng bước tạo ra những khuôn khổ cho các nước thuộc “Bộ tứ” đưa ra những nỗ lực chung, có phối hợp. Việt Nam có thế mạnh để phát huy hướng đi này.
Phát triển hành lang kinh tế Đông – Tây
Đây là một điểm thiết yếu để thiết lập được một Đông Nam Á gắn kết toàn diện và một ASEAN đoàn kết, thống nhất trong tương lai. Cần thúc đẩy nhanh các chương trình hợp tác của các nước từ Ấn Độ tới các nước AS-5, tới bờ biển Việt Nam rồi vươn sang AS-5 và các nước khác bên kia Biển Đông. Cần nỗ lực hoạch định các chương trình hợp tác như thế trong trụ cột phát triển kinh tế của Cộng đồng ASEAN.
Việt Nam là nước có ưu thế thuận lợi nhất để đi đầu đưa ra và thúc đẩy những sáng kiến như vậy thông qua hợp tác với Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ và cả những đối tác khác. Trong quan hệ với các nước ASEAN thuộc Tiểu vùng sông Mekong, Việt Nam cần chú trọng đặc biệt việc tạo cho Lào những hành lang ra Biển Đông để giúp Lào phát triển kinh tế – xã hội. Lào là một quốc gia không có biển, và đang thông qua tham gia BRI của Trung Quốc để trở thành một quốc gia “nối với biển” (land – linked), và tiến trình này làm cho Lào ngày càng chịu ảnh hưởng lớn hơn của Trung Quốc. Đây là một điểm chốt cần được xử lý để phát triển được một hành lang kinh tế Đông – Tây có lợi chung cho toàn Đông Nam Á/ASEAN.
Với các nước thuộc nhóm AS-5, Việt Nam cần liên kết, phối hợp chặt chẽ với Inđônêxia với tư cách quốc gia lớn nhất của ASEAN tại phần “biển đảo” để tạo nên liên kết Đông – Tây này. Inđônêxia có mức độ tham gia sâu với Trung Quốc thông qua gắn kết “Con đường Tơ lụa trên biển thế kỷ XXI” của Trung Quốc với “Trục hàng hải” của Inđônêxia.
Đây là điều kiện tốt để ASEAN nói chung, Inđônêxia nói riêng kết nối, giảm mức độ xung đột lợi ích trong quá trình các bên triển khai các chiến lược BRI và IPS, tạo nên những không gian cùng có lợi, trực tiếp là cho ASEAN.
Để triển khai được điều này, các cảng nước sâu ở miền Trung Việt Nam có vai trò hết sức quan trọng và toàn diện. Một khi hành lang kinh tế Đông – Tây phát triển, liên kết với sự phát triển kinh tế theo hướng Bắc – Nam của BRI, có sự can dự sâu sắc của nhiều nước, yêu cầu cần có những cơ chế, khuôn khổ an ninh bảo đảm lợi ích cho tất cả các bên sẽ tự nhiên được đặt ra.
3. Nâng cao vị thế quốc gia
Trong những năm qua, vị thế quốc gia của Việt Nam tại khu vực đã tăng lên nhiều. Về khách quan, Việt Nam nằm ở vị trí trọng điểm tại một khu vực trung tâm về an ninh và phát triển của thế giới, vì thế là đối tác được tranh thủ cao. Về chủ quan, Việt Nam hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại khôn khéo, vừa tạo được một không gian quan hệ quốc tế thuận lợi cho an ninh và phát triển, vừa duy trì được giá trị độc lập truyền thống, tôn cao hơn vị thế quốc gia trong bối cảnh hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa.
Trong tình hình mới, vị thế của Việt Nam phụ thuộc vào khả năng Việt Nam giúp điều hòa cạnh tranh Trung – Mỹ, củng cố ASEAN và góp phần xử lý hòa bình những “điểm nóng” tại khu vực. Để làm điều này, Việt Nam cần chú ý một số điểm về chính sách sau:
Phát huy “thế”, khắc phục “lực” tạo môi trường an ninh, phát triển thuận lợi
Ở giai đoạn hiện tại, với nền kinh tế còn nhỏ và chịu tác động phức tạp, nhiều chiều của nước lớn, “lực” của Việt Nam còn nhiều hạn chế, vì thế cần phát huy sức mạnh của “thế” để bổ khuyết cho điểm yếu về “lực”, từng bước nâng dần sức mạnh tổng hợp của quốc gia.
Với triển vọng tình hình và ưu thế tự có, Việt Nam nên chú trọng huy động sức mạnh ở bên ngoài, biến sự quan tâm, chú ý của quốc tế thành sức mạnh của mình, giúp bảo vệ và phát huy lợi ích cho mình. Trong những năm qua, phát huy sức mạnh từ “thế”, kinh tế của Việt Nam đã hội nhập nhanh và sâu với kinh tế quốc tế và trở thành một phần gắn kết, có ý nghĩa trong nền kinh tế quốc tế, giúp nâng cao nhanh chóng tiềm lực kinh tế quốc gia.
Cách tiếp cận này cần được vận dụng cho an ninh, quốc phòng, gắn kết lợi ích của các đối tác lớn, tích cực vào với Việt Nam, thông qua đó huy động sức mạnh quân sự, an ninh của họ vào việc giúp bảo vệ an ninh. Việt Nam cần chủ động nắm bắt và thúc đẩy tiến trình này, biến ưu thế thành sức mạnh vật chất phục vụ lợi ích quốc gia – dân tộc.
Việt Nam có thuận lợi để gắn kết lợi ích của nhiều bên, để các bên, dù là đối lập, cũng có lợi ích trong việc ủng hộ một nền hòa bình, ổn định và hợp tác cho Việt Nam. Sự tham gia cân đối của Việt Nam trong các chiến lược lớn của Trung Quốc, Mỹ, của các cường quốc khu vực sẽ giúp củng cố thêm vị thế mà Việt Nam đã tạo dựng được trong những năm qua. Việc phát huy tốt sức mạnh từ “thế” là điều kiện quan trọng để Việt Nam ổn định, phát triển, tạo ra “lực” mới cho chặng đường tiếp theo.
Nắm vai trò “hạt nhân” trong ASEAN, củng cố địa vị “trung tâm” của ASEAN trong các vấn đề an ninh khu vực
Trong bối cảnh mới, với thế mạnh hiện có, Việt Nam cần xác định nắm thời cơ là địa vị quốc gia “hạt nhân” của ASEAN, chủ động đưa ra các sáng kiến thúc đẩy hợp tác an ninh khu vực. Trong thời gian hai năm 2020 – 2021, Việt Nam cần đưa ra những sáng kiến góp phần khẳng định địa vị “trung tâm” của ASEAN trong xử lý các vấn đề an ninh nổi lên trong khu vực như tranh chấp Biển Đông, hợp tác Tiểu vùng sông Mekong, phát triển hành lang Đông – Tây và những vấn đề phức tạp khác.
Việt Nam cần tận dụng triệt để các cơ chế hợp tác hiện có mà ASEAN đóng vai trò quan trọng và các cơ chế phi chính phủ, không chính thức để tạo ra các tiền lệ xử lý các vấn đề an ninh khu vực bằng các công cụ luật pháp quốc tế và trên cơ sở chia sẻ lợi ích chung. Trong số này, ngoài hai cơ chế truyền thống và có sự can dự của nhiều nước, ADMM+ và EAMF là hai cơ chế Việt Nam cần chú trọng tăng cường và phát huy.
ADMM+ là cơ chế do Việt Nam đề xướng, có chức năng sâu về các vấn đề an ninh, quốc phòng tại khu vực. Cơ chế này cần tiếp tục được tập trung phát triển để trở thành diễn đàn chính thức mà các vấn đề được đưa ra bàn thảo có mức độ ràng buộc nhất định.
Về lâu dài, ADMM+ nên trở thành khuôn khổ hợp tác quốc phòng đa phương xử lý các vấn đề an ninh khu vực có tính ràng buộc. Cần đưa dần các vấn đề an ninh tại Tiểu vùng sông Mekong để cơ chế này từng bước trở thành cơ chế hợp tác an ninh toàn diện tại khu vực, do ASEAN giữ vai trò trung tâm.
EAMF cũng cần được tập trung củng cố, mở rộng về chức năng, nhiệm vụ trên các lĩnh vực hợp tác quốc tế bảo đảm không gian hợp tác, phát triển lợi ích biển ổn định, bền vững, công bằng, phù hợp luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS 1982 cho toàn khu vực. Trong thời gian tới, vì lợi ích trước tiên của mình, Việt Nam cần đưa ra và đi đầu thúc đẩy những sáng kiến theo hướng này, phát triển hợp tác đa phương, kể cả với các nước lớn ngoài khu vực tại Biển Đông, trực tiếp là ở những khu vực ta có tranh chấp.
Xử lý tốt trước quan hệ Trung – Mỹ và quan hệ Trung – Việt – Mỹ
Đây là vấn đề khó khăn nhất đối với ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng, song xử lý tốt mối quan hệ này sẽ tạo cho Việt Nam một thế mạnh toàn diện. Trong các nước ASEAN, Việt Nam tương đồng hơn cả với Trung Quốc về chính trị, nhưng lại có nhiều điểm chia sẻ với Mỹ về an ninh. Việt Nam là đối tác ưu tiên tranh thủ, song cũng là đối tượng hàng đầu cần chi phối kiểm soát của cả Trung Quốc và Mỹ, tuy nhiên, cách thức tiếp cận của mỗi nước với Việt Nam khác nhau.
Với Trung Quốc, Việt Nam gần gũi về thể chế chính trị, văn hóa, Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam nhưng cũng là quốc gia đe dọa trực tiếp lợi ích chính đáng và chủ quyền của Việt Nam không chỉ trên biển. Trong khi đó, cũng như nhiều nước ASEAN khác, Việt Nam nhận thấy lợi ích trước sự hiện diện của Mỹ và đồng minh tại khu vực do việc duy trì sự cân bằng lực lượng, đảm bảo an ninh, hòa bình khu vực, song Việt Nam cũng có những lo ngại về nguy cơ tác động chuyển hóa làm thay đổi thể chế chính trị từ các nước này.
Quan hệ Mỹ – Trung hiện bước vào giai đoạn xung đột gay gắt, là mâu thuẫn đối kháng, trong đó chiến tranh thương mại là phần nổi của “tảng băng trôi” cạnh tranh chiến lược không khoan nhượng. Kết quả của cuộc xung đột này trong thập niên tới sẽ là yếu tố lớn nhất chi phối tình hình khu vực và toàn cầu, dẫn tới một trật tự mới và cấu trúc an ninh mới cho toàn khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Còn khó có thể dự báo được kết quả đó, song Mỹ có lẽ đang bắt đầu giành lại ưu thế, có nhiều đồng minh, bạn bè, có quốc lực lớn hơn, nắm ưu thế về khoa học – công nghệ…trong khi Trung Quốc ở tình thế lép vế hơn trong những yếu tố trên. Đặc điểm này đang giúp định hình chính sách của ASEAN nói chung, Việt Nam nói riêng trong xử lý quan hệ với hai siêu cường khu vực này.
Cũng giống như nhiều nước ASEAN, Việt Nam đạt được lợi ích lớn nhất khi Mỹ và Trung Quốc duy trì sự đối kháng chiến lược ở mức có kiểm soát, đồng thời hợp tác giữa hai nước không dẫn tới những thỏa hiệp song phương bỏ qua lợi ích của nước nhỏ.
Để củng cố điều này trong bối cảnh tình hình mới, Việt Nam cần phát huy hơn nữa thế mạnh của mình, mạnh dạn nắm một vị trí đi đầu trong ASEAN, thúc đẩy hình thành những cơ chế hợp tác an ninh mới có tính ràng buộc, hướng tới một cấu trúc an ninh mới tại khu vực rộng lớn Ấn Độ Dương -Thái Bình Dương, lấy châu Á làm trung tâm, Đông Nam Á là trọng điểm, trong đó Việt Nam đóng vai trò thực sự có ý nghĩa.
Tiến trình hoạch định và triển khai yêu cầu trên sẽ nảy sinh xung đột giữa các chương trình hợp tác giữa ASEAN – Mỹ/đồng minh với ASEAN – Trung Quốc. Đây là vấn đề ASEAN/Việt Nam cần giải quyết trên nguyên tắc hướng tới mục tiêu thiết lập một không gian phát triển bền vững cho Cộng đồng và cả khu vực. Tạo được môi trường phát triển tại Đông Nam Á, trong đó có cân bằng ảnh hưởng Mỹ – Trung và bảo đảm được sự gắn kết trong ASEAN là những yêu cầu không thể thiếu.
Trong bối cảnh Trung Quốc đẩy mạnh triển khai các sáng kiến hợp tác khu vực do nước này dẫn dắt, nhất là BRI, Việt Nam cần nỗ lực tham gia định hướng, xây dựng những chủ trương, nguyên tắc chung trong ASEAN; các chương trình hợp tác của từng quốc gia ASEAN với Trung Quốc cần theo những chủ trương, nguyên tắc đó và dưới danh nghĩa hợp tác ASEAN – Trung Quốc, tránh việc Trung Quốc tách rời từng nước ASEAN.
Với thực tế và triển vọng tình hình, để có được môi trường an ninh và không gian phát triển phù hợp với lợi ích quốc gia, Việt Nam cần đặt quan hệ với từng nước trong một tổng thể quan hệ Trung – Việt – Mỹ không tách rời, trong đó mục tiêu là duy trì, phát triển quan hệ thân thiện, hợp tác với cả hai nước, đồng thời tạo đối trọng trong từng quan hệ song phương của Việt Nam với hình thức, mức độ phù hợp trên từng lĩnh vực, từng thời điểm. Quan hệ song phương Việt – Mỹ đang giúp mang lại nhiều lợi ích trực tiếp và lâu dài, đồng thời bù lấp vào những khoảng trống trong quan hệ Việt – Trung.
Quan hệ gần gũi Việt – Trung cũng giúp nâng cao đáng kể giá trị chiến lược của Việt Nam trong chính sách của Mỹ đối với khu vực, tiếp tục giúp tạo cho Việt Nam lợi thế trong những năm tới. Việc nâng cấp quan hệ Việt – Mỹ đến gần hơn cấp độ quan hệ Việt – Trung là điều nên sớm được tính tới trước khi quá muộn.