Trước hành động của Trung Quốc, Mỹ gia tăng hoạt động quân sự tại Biển Đông và điều chỉnh quan điểm chính sách theo hướng tán thành phán quyết của Toà trọng tài năm 2016.
Mỹ tăng cường hoạt động tự do hàng hải ở Biển Đông.
Bộ Quốc phòng Mỹ đã gia tăng tần suất hoạt động tự do hàng hải (FONOP) tại Biển Đông. Tính đến 25/12, năm nay Hải quân Mỹ đã tiến hành 9 FONOP tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, so với 8 cuộc năm 2019 và 6 cuộc năm 2018.
Hải quân Mỹ cũng tiến hành hoạt động phối hợp 2 tàu sân bay lần đầu tiên từ năm 2014, đồng thời đẩy mạnh tuần tra trên không và triển khai tàu ngầm.
Áp dụng biện pháp trừng phạt
Tháng 4 và 5, các tàu chiến của Hải quân Mỹ áp sát tàu khảo sát của Trung Quốc trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Malaysia. Không quân Mỹ cũng gia tăng số lượng nhiệm vụ của máy bay ném bom chiến lược B52, B1-B và B2 trên vùng trời Biển Đông.
Chính quyền Trump cáo buộc Trung Quốc lợi dụng đại dịch để thúc đẩy tuyên bố chủ quyền và trong tháng 4 đã kêu gọi Bắc Kinh dừng hoạt động khiêu khích và cách hành xử bắt nạt.
Đáng kể hơn, Mỹ thể hiện lập trường rõ ràng hơn về nền tảng pháp lý trong các đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc.
Ngày 1/6, Mỹ đệ trình công thư lên LHQ phản đối tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc tại Biển Đông vì không phù hợp với UNCLOS.
Ngày 13/7, Ngoại trưởng Mike Pompeo đưa ra tuyên bố quan trọng, ủng hộ phán quyết của Toà trọng tài năm 2016.
Cụ thể, Mỹ bác bỏ “đường 9 đoạn” bất hợp pháp của Trung Quốc, đòi hỏi chủ quyền của nước này đối với các nguồn tài nguyên ngoài khơi thuộc EEZ của Việt Nam, Philippines, Brunei, Malaysia, Indonesia cũng như với đá Vành Khăn, bãi Cỏ Mây và bãi ngầm James.
Ngoại trưởng Mike Pompeo tuyên bố: “Thế giới sẽ không cho phép Bắc Kinh coi Biển Đông là vùng biển của mình. Mỹ đứng về phía các đồng minh và đối tác ở Đông Nam Á trong việc bảo vệ quyền chủ quyền của họ với nguồn tài nguyên ngoài khơi, phù hợp với các quyền và nghĩa vụ của họ theo luật pháp quốc tế”.
Trong bài phát biểu tại một tổ chức tư vấn ở Washington, D.C. một ngày sau tuyên bố của ông Pompeo, Trợ lý Ngoại trưởng phụ trách khu vực Đông Á và Thái Bình Dương David Stilwell mô tả các tập đoàn Trung Quốc tiến hành hoạt động ở Biển Đông là “các công cụ cưỡng chế kinh tế và lạm dụng quốc tế”.
Theo ông, trong đàm phán COC, Trung Quốc đã tìm cách hạn chế khả năng của các nước Đông Nam Á tiến hành tập trận quân sự với nước ngoài, sử dụng chiến thuật hăm dọa để ngăn chặn các nước Đông Nam Á có tuyên bố chủ quyền hợp tác khai thác năng lượng với các công ty không phải của Trung Quốc.
Stilwell cũng đề cập tới khả năng Mỹ áp dụng các biện pháp trừng phạt nhằm vào cá nhân và doanh nghiệp tham gia thực hiện chính sách của Trung Quốc tại Biển Đông.
Ngày 26/8, Bộ Ngoại giao Mỹ áp đặt các biện pháp trừng phạt với một số công dân Trung Quốc chịu trách nhiệm hoặc có dính líu tới việc xây dựng, cải tạo hoặc quân sự hoá quy mô lớn các tiền đồn có tranh chấp ở Biển Đông.
Bộ Thương mại Mỹ liệt vào “danh sách đen” 24 công ty nhà nước của Trung Quốc liên quan tới việc xây dựng 7 đảo nhân tạo tại quần đảo Trường Sa.
Phản ứng của Đông Nam Á
Các nước Đông Nam Á có tuyên bố chủ quyền tại Biển Đông tỏ ra lo lắng trước cách hành xử hung hăng của Trung Quốc tại vùng biển này và thể hiện quan điểm cứng rắn hơn.
Phản ứng của các nước Đông Nam Á chủ yếu mang tính pháp lý. Từ tháng 12/2019, Malaysia, Việt Nam, Indonesia và Philippines gửi công hàm tới LHQ phản đối “đường 9 đoạn” và các yêu sách về“quyền lịch sử” đối với Biển Đông mà Trung Quốc đưa ra.
Quan trọng hơn, qua việc phản đối yêu sách của Trung Quốc, các nước Việt Nam, Indonesia và Philippines đã đề cập tới phán quyết của Toà trọng tài năm 2016 một cách rõ ràng, qua đó khôi phục giá trị của phán quyết này sau 4 năm bị gạt sang một bên.
Ngay cả Brunei, vốn được coi là “im hơi lặng tiếng” trong số các nước có tuyên bố chủ quyền, cũng lần đầu tiên ra tuyên bố về Biển Đông ngày 20/7, trong đó nhấn mạnh rằng các cuộc đàm phán giải quyết tranh chấp cần tuân thủ UNCLOS.
ASEAN cũng đã nhấn mạnh hơn tới UNCLOS, coi đây là nền tảng để xác định quyền chủ quyền, quyền tài phán và các lợi ích chính đáng liên quan tới các vùng biển.
Philippines là nước điều chỉnh lập trường một cách rõ ràng nhất theo hướng cứng rắn hơn. Tháng 5, Hải quân nước này mở một bến đỗ mới tại đảo Pagasa và công bố kế hoạch phát triển hạ tầng tại đây.
Vào dịp 4 năm ngày Tòa trọng tài ra phán quyết, Ngoại trưởng Philippines Teddy Locsin nói rằng phán quyết này là “không thể đàm phán”. Sau tuyên bố của ông Pompeo, Bộ trưởng Quốc phòng Philippines Delfin Lorenzana đã kêu gọi Trung Quốc tuân thủ phán quyết. Tháng 8, ông Locsin tuyên bố nếu Philippines bị tấn công tại Biển Đông, ông sẽ kích hoạt hiệp ước liên minh quân sự năm 1951 với Mỹ, trong khi đó Bộ trưởng Lorenzana cho rằng yêu sách “đường 9 đoạn” của Bắc Kinh chỉ có trong tưởng tượng.
Duy trì chính sách đã có từ lâu, Indonesia tái khẳng định phản đối “đường 9 đoạn” cũng như đề xuất của Trung Quốc về việc đàm phán các tuyên bố chủ quyền chồng lấn gần quần đảo Natuna. Tháng 7/2020, quân đội Indonesia tiến hành tập trận hải quân và không quân quy mô lớn ở gần Natuna.
Trong khi đó, Hải quân và Cảnh sát biển Malaysia tuần tra gần tàu thăm dò West Capella và theo dõi sự hiện diện của tàu khảo sát Trung Quốc trong EEZ của nước này trong tháng 4-5. Chính phủ tái khẳng định rằng sẽ bảo vệ các quyền và lợi ích của đất nước tại Biển Đông.
Ngày 13/8, Ngoại trưởng Malaysia Hishammuddin Hussein phát biểu nhấn mạnh sự kiên trì, nhất quán sử dụng các biện pháp đấu tranh ngoại giao. Malaysia đã thành công khiến tàu Trung Quốc rời khỏi các khu vực dầu khí mà tập đoàn Petronas của nước này đang hoạt động.
Cạnh tranh Mỹ-Trung quyết liệt hơn
Mối quan hệ giữa Trung Quốc và Mỹ từ sau đại dịch Covid-19 đã bước vào giai đoạn cạnh tranh ngày càng khốc liệt trong cuộc đua giữa một siêu cường và một cường quốc mong muốn soán ngôi.
Với sự đồng thuận lưỡng đảng tại Mỹ về vấn đề Trung Quốc, chính quyền mới ở Mỹ sẽ không thể thực hiện một chính sách mang tính hòa hoãn hơn tại Biển Đông. Tuy nhiên, cách thức triển khai cụ thể trên thực tế có thể khác nhau.
Năm 2021, Mỹ vẫn sẽ tiếp tục gia tăng tần suất tập trận với đồng minh và đối tác, các chiến dịch hiện diện và tuần tra nhằm đảm bảo tự do hàng hải (FONOP) ở Biển Đông.
Khả năng xảy ra đụng độ giữa lực lượng quân sự Mỹ và Trung Quốc ở khu vực này vẫn tiềm ẩn những nguy cơ khó lường. Nhiều khả năng, Washington sẽ tiếp tục áp đặt các biện pháp trừng phạt bổ sung nhằm vào các công ty, cá nhân tại Trung Quốc mà Mỹ cho rằng có vi phạm ở Biển Đông.
Biển Đông sẽ là một trong những địa bàn quan trọng để Mỹ kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc. Các nước Đông Nam Á sẽ trở thành tâm điểm của cuộc cạnh tranh Trung-Mỹ ngày một gia tăng.
Tiến trình hoàn tất COC vẫn còn đầy trắc trở
Trung Quốc sẽ tiếp tục đẩy mạnh các tuyên bố chủ quyền lãnh thổ nhằm chuyển hướng chú ý khỏi các khó khăn kinh tế.
Khả năng trong năm 2021, Trung Quốc sẽ tiếp tục gây sức ép lên hoạt động thăm dò khai thác tài nguyên của các quốc gia ven Biển Đông, đồng thời thúc đẩy hợp tác khai thác chung theo kiểu Trung Quốc, thông qua đó thao túng và chia rẽ các nước ASEAN.
Năm 2020, do đại dịch diễn biến phức tạp, các quan chức 10 nước thành viên ASEAN và Trung Quốc chưa thể gặp nhau để tiếp tục đàm phán về COC.
Tính chất nhạy cảm của các cuộc đàm phán này không cho phép tiến hành thông qua hình thức trực tuyến.
Bắc Kinh có vẻ muốn nối lại đàm phán. Tuy nhiên, lập trường của các bên còn rất xa nhau. Hơn thế nữa, bản thân Trung Quốc – vốn phớt lờ luật pháp quốc tế, và muốn độc chiếm Biển Đông, nên việc duy trì tiến trình đàm phán COC thực chất cũng chỉ là một biện pháp câu giờ để họ thực hiện các ý đồ ở vùng biển này.
Chính vì vậy, ngay cả khi các cuộc thảo luận được nối lại, mục tiêu hoàn tất COC trong năm 2021 mà Trung Quốc đơn phương tuyên bố sẽ khó có thể đạt được.