Mọi chiến dịch đều khác nhau. Tuy nhiên, có rất nhiều bài học lịch sử điển hình. Một trong những nhà tư tưởng chiến lược nổi tiếng nhất giải thích các tình huống mà người ta nên biết để hiểu rõ hơn về cuộc xung đột hiện nay. Ở đây có một số tương đồng đáng ngạc nhiên.
Các cuộc chiến không bao giờ diễn ra theo kế hoạch. Và những cuộc chiến của những nhà độc tài bị cô lập, những kẻ cứng đầu không còn chịu nghe phần còn lại của thế giới thì càng ít có khả năng diễn ra theo kế hoạch hơn. Trước sự thật đó, tình hình Ukraine sẽ ra sao? Chiếu theo lịch sử, người ta có thể thấy cuộc chiến này có thể kết thúc như thế nào? Sau đây là những kịch bản có thể xảy ra:
Trong trường hợp cực đoan, Ukraine có thể bị sáp nhập, tương tự như Iraq sáp nhập Kuwait hồi năm 1990. Nhưng điều đó chỉ có thể hình dung được sau một cuộc chiến tranh tàn phá khủng khiếp và kéo dài, buộc người dân Ukraine phải cầu hòa bằng bất cứ giá nào. Với diễn biến của các sự kiện trong tuần qua cho đến nay, điều này khó có thể xẩy ra.
Khả năng thứ hai là sự chia cắt Ukraine, tương tự như Đức hoặc Triều Tiên năm 1945 – hoặc, có lẽ thích hợp hơn, như theo Hiệp ước Moscow năm 1686 về nền “hòa bình vĩnh viễn” giữa Đế chế Sa hoàng và Ba Lan-Litva, vốn về cơ bản chia Ukraine thành hai phần. Đây cũng là một kịch bản rất khó xảy ra trong bối cảnh kháng cự quyết liệt của quân đội Ukraine và sự tồn tồn tại song song nhiều mặt trận.
Nếu Ukraine bị khuất phục, đất nước này sẽ rơi vào tình trạng tương tự như nước láng giềng Belarus, vốn đã bị Moscow khuất phục trên thực tế sau khi Putin giải cứu chế độ của ông Lukashenko khỏi sự sụp đổ do các cuộc biểu tình lớn hồi năm 2020 và 2021.
Nhưng điều đó chỉ có thể xảy ra nếu Nga đánh bại lực lượng vũ trang Ukraine và dựng lên một chính phủ bù nhìn ở Kiev. Kết quả này sẽ dẫn tới một sự bất ổn kéo dài nếu xét tinh thần quyết tâm kháng chiến đến cùng của người dân Ukraine hiện nay.
Từ đó có thể xảy ra các tình huống, ví dụ như việc “Phần Lan hóa” Ukraine (được hiểu là một quyết định tự nguyện và tự quyết nhằm duy trì trạng thái trung lập về quân sự của Ukraine), điều sẽ làm giảm bớt một trong những mối quan ngại chính của Nga: khả năng Ukraine gia nhập Liên minh Bắc Đại Tây Dương trong tương lai.
Tuy nhiên, những người ủng hộ một giải pháp như vậy, phần đông là những chuyên gia và chính khách lỗi lạc trong 30 năm qua, quên rằng điều này sẽ buộc Ukraine bị lệ thuộc vào Điện Kremlin. Điều đó chỉ có thể thực hiện được như một phần của một giải pháp toàn cầu đối với cuộc chiến này, trong đó – như Phần Lan đã làm trong giai đoạn 1939-1940 – quân đội Ukraine sẽ buộc Nga rơi vào thế bế tắc.
Và cũng cần có một kịch bản xấu hơn nhiều đối với Điện Kremlin, trong đó các lực lượng Nga bị sa lầy trong một cuộc xung đột kéo dài, giống như Liên Xô ở Afghanistan, hay như Hoa Kỳ ở Iraq. Nhưng sự so sánh đó là khập khiễng, vì Ukraine quan trọng hơn nhiều đối với Điện Kremlin so với Afghanistan đối với Liên Xô, hay Iraq đối với Hoa Kỳ.
Cũng vì lý do này, không có khả năng Moscow sẽ rút khỏi Ukraine sau khi đã “dạy một bài học” cho nước láng giềng, giống như Trung Quốc đã làm ở Việt Nam năm 1979.
Tất cả những điều này làm cho các kịch bản leo thang có nhiều khả năng xảy ra hơn, từ đó sẽ có nhiều kịch bản phụ. Ví dụ, Nga có thể tìm cách gây nguy hiểm cho an ninh châu Âu và khối NATO bằng cách kích động các vụ việc ở biên giới châu Âu. Ví dụ, Thụy Điển trung lập đang theo dõi chặt chẽ ý định của Nga liên quan đến đảo Gotland ở Biển Baltic. Cũng phải nghĩ đến khả năng xảy ra các cuộc tấn công mạng, và thậm chí hoạt động khủng bố cũng không nên bị loại trừ.
Moscow cũng có thể “mở một mặt trận mới” thông qua khuyến khích và giúp đỡ nước Cộng hòa Srpska nhỏ bé ở Bosnia-Herzegovina tuyên bố độc lập. Nga cũng có thể làm tăng thêm nỗi lo sợ về việc sử dụng vũ khí hạt nhân thông qua các tuyên bố khiêu khích (và các bước chiến lược rõ ràng trong việc kích hoạt lực lượng hạt nhân), giống như Liên Xô đã làm trong cuộc Khủng hoảng Kênh đào Suez năm 1956.
Việc Nga bố trí vũ khí hạt nhân trên lãnh thổ Belarus, một động thái có thể được thực hiện nhờ sửa đổi hiến pháp nước này, có thể là một nỗ lực khác nhằm gây bất ổn cho châu Âu và chia rẽ liên minh Đại Tây Dương.
Với việc Thổ Nhĩ Kỳ ngày càng đứng về phía Ukraine và ngăn chặn sự qua lại của các tàu chiến Nga trên eo biển Bosphorus, điều này cũng có thể gây ra phản ứng từ Nga, gợi nhớ lại âm hưởng của cuộc Chiến tranh Crimea hồi thế kỷ 19.
Một kịch bản phụ khác (và điều này rất có khả năng) là xảy ra leo thang không cố ý. Ví dụ, điều gì sẽ xảy ra nếu một máy bay ném bom của Nga bị lạc, vượt biên giới sang châu Âu, và sau đó bị lực lượng NATO bắn hạ, tương tự như sự cố ở biên giới Thổ Nhĩ Kỳ-Nga năm 2015?
Hoặc nếu nhiều chuyên gia hướng dẫn hay các tình nguyện viên của phương Tây bị Nga ném bom giết hại ở Ukraine, điều này cũng có thể gây phản ứng phẫn nộ ở phương Tây đòi trả đũa. Cần nhớ rằng tại Syria năm 2018, hơn 200 lính đánh thuê Nga đã bị quân đội Mỹ tiêu diệt trong trận chiến giành Chasham.
Một danh sách đầy đủ các kịch bản có thể còn bao gồm khả năng quân đội Nga thất bại nặng nề, sau đó dẫn đến sự ra đi của Tổng thống Vladimir Putin, tương tự như những gì đã xảy ra với Slobodan Milosevic sau Chiến tranh Kosovo, hoặc quân đội Argentina sau Chiến tranh Falklands 1982.
Điều đó có thể làm tăng khả năng Ukraine tái chiếm nhanh chóng các nước cộng hòa ly khai ở miền đông, tương tự như những gì lực lượng Croatia đã làm trong Chiến dịch Storm năm 1995.
Tuy nhiên, hiện tại, quân đội Nga sẽ nỗ lực làm tất cả để đạt được thành công quân sự tối đa trên thực địa, với mục tiêu chính là nghiền nát các lực lượng quân đội và phá hủy bộ máy nhà nước Ukraine bằng bạo lực ngày càng tăng. Lenin chẳng đã từng nói: “Đầu tiên thọc lưỡi lê, nếu gặp bùn thì thọc tiếp, nếu gặp thép thì rút lui”.
Tiếc rằng vẫn phải nêu thêm một so sánh lịch sử cuối cùng: đó là sự tàn phá khủng khiếp thành phố Grozny của Chechnya năm 1999. Ví dụ này đặc biệt đáng sợ vì các lực lượng Chechnya đã có mặt ở Ukraine để thực hiện những hành động bẩn thỉu, tàn bạo nhất cho Điện Kremlin.
T.P