TS.Vũ Đình Ánh, chuyên gia kinh tế bày tỏ lo ngại về các khoản nợ sẽ trở thành nợ xấu “trong tương lai”, khi ngân hàng siết chặt và tăng cường thu hồi nợ từ dự án bất động sản.
Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước về triển khai Nghị quyết số 42/2017/QH14 cho thấy, nợ xấu của hệ thống ngân hàng hiện khá ổn. Ông đánh giá thế nào về hoạt động xử lý nợ xấu trong thời gian qua?
Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, tại thời điểm 31/12/2021, tỷ lệ nợ xấu nội bảng của hệ thống ngân hàng là 1,49%, giảm mạnh so với trước thời điểm áp dụng Nghị quyết số 42/2017/QH14 (gọi tắt là Nghị quyết 42).
Cụ thể, tính từ cuối năm 2017 đến 31/12/2021, toàn hệ thống ngân hàng đã xử lý được 750.100 tỷ đồng nợ xấu nội bảng. Trong đó, xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42 được 380.200 tỷ đồng.
Việc Quốc hội thể chế hóa hoạt động xử lý nợ xấu thông qua việc xây dựng và ban hành Nghị quyết 42 là nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế trong hoạt động xử lý nợ xấu, tạo khuôn khổ pháp lý thống nhất và đồng bộ về xử lý nợ xấu; tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, hỗ trợ các tổ chức tín dụng trong việc xử lý hiệu quả, dứt điểm nợ xấu, đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của nền kinh tế.
Tuy nhiên, nợ xấu có nguy cơ tăng mạnh trở lại. Nguyên nhân một phần do khách hàng vay vốn gặp khó khăn vì đại dịch Covid-19, đã được khoanh nợ, giãn nợ, gia hạn nợ, nhưng hết thời gian được giãn nợ, gia hạn nợ mà vẫn chưa hết khó khăn, chưa có nguồn để trả nợ đúng hạn. Hơn nữa, sau khi các ông chủ của hai tập đoàn kinh doanh bất động sản lớn là FLC và Tân Hoàng Minh bị khởi tố, bắt tạm giam và đang bị điều tra, nợ xấu có nguy cơ gia tăng.
FLC và Tân Hoàng Minh đang cơ cấu lại hoạt động, tài chính và thu xếp nguồn vốn để trả nợ ngân hàng, thậm chí với cả nguồn huy động từ trái phiếu doanh nghiệp, Tân Hoàng Minh cũng thu xếp để hoàn tiền cho trái chủ. Vậy tình hình nợ xấu có bị ảnh hưởng không, thưa ông?
Tôi cho rằng, tỷ lệ nợ xấu không dừng lại ở con số Ngân hàng Nhà nước báo cáo hiện nay, mà đang nằm ở những khoản chưa phải là nợ xấu, nhưng sẽ trở thành nợ xấu trong tương lai rất gần.
Ví dụ, các khoản nợ nhà băng của FLC, Tân Hoàng Minh hiện có thể chưa phải là nợ xấu, thậm chí còn được đánh giá là tốt, nhưng sau khi 2 ông chủ bị bắt, các nhà băng cho vay đều tìm cách thu nợ càng sớm càng tốt, kể cả chấp nhận đòi trước hạn. Nếu các bên vay chưa thể “xoay” kịp để trả nợ, thì khoản nợ đó sẽ biến thành nợ xấu.
Việc nhà băng đòi nợ trước hạn đối với dự án bất động sản chắc chắn không dừng lại ở 2 doanh nghiệp từng “nổi đình, nổi đám” trên thị trường bất động sản này, mà có thể sẽ lan đến các dự án bất động sản khác theo hiệu ứng dây chuyền.
Thị trường bất động sản và thị trường tài chính, tiền tệ có mối quan hệ hữu cơ, mật thiết với nhau, không tách rời nhau. Trong thời gian vừa qua, bất động sản được “thổi” lên quá cao, giá nhà đất cao phi thực tế. Một khi các vụ án bất động sản bị vỡ lở, giá nhà đất giảm liên tục như giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán thời gian vừa qua khiến nợ xấu gia tăng là điều không thể tránh khỏi.
Nhìn vào thị trường chứng khoán có thể thấy, sau khi liên tục tăng và liên tục lập đỉnh mới, thị trường bắt đầu lao dốc. Hiện nhiều nhà đầu tư dù chấp nhận lỗ cũng không bán được cổ phiếu, vì tâm lý người mua e ngại thị trường còn giảm nữa.
Tương tự, khi giá nhà đất “quay đầu”, nhà đầu tư “ôm” đất và các dự án bất động sản muốn cắt lỗ cũng không được, thì “đào” đâu ra tiền để trả nợ, nên nợ xấu tiềm ẩn nguy cơ tăng trở lại rất cao.
Theo ông, điều gì xảy ra khi giá nhà đất “quay đầu”?
Theo quy luật của tự nhiên và xã hội, không có gì cứ tăng mãi mà không dừng lại rồi đi xuống. Thị trường chứng khoán, bất động sản cũng không nằm ngoài quy luật này. Khi thị trường bất động sản đi xuống, ngoài tác động khiến nợ xấu ngân hàng có nguy cơ tăng cao như tôi đã nói, thì còn có thể khiến thị trường trái phiếu doanh nghiệp lao đao.
Năm 2018, quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp bằng 8,57% GDP (tăng 53% so với năm 2017), vượt mục tiêu đặt ra tại Quyết định số 1191/2017/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt lộ trình phát triển thị trường trái phiếu giai đoạn 2017 – 2020, là đến năm 2020, quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp bằng 7% GDP.
Năm 2019, quy mô thị trường này tương đương 11,3% GDP. Tiếp đó, năm 2020, các doanh nghiệp đã huy động được 430.000 tỷ đồng trên thị trường trái phiếu. Sang năm 2021, thị trường trái phiếu tiếp tục cung cấp cho doanh nghiệp thêm 495.029 tỷ đồng.
Doanh nghiệp bất động sản chiếm khối lượng lớn trên thị trường trái phiếu, vì lãi suất rất hấp dẫn, thường gấp khoảng 2 lần gửi tiết kiệm ngân hàng. Một khi các doanh nghiệp bất động sản gặp khó khăn, không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ lãi và vốn cho nhà đầu tư, sẽ dẫn đến hệ lụy rất lớn. Hơn nữa, do lãi suất trái phiếu doanh nghiệp hấp dẫn, chắc chắn có rất nhiều nhà đầu tư đã vay ngân hàng đầu tư vào trái phiếu để hưởng chênh lệch, nên khi doanh nghiệp không trả được nợ cho trái chủ đúng hạn, thì nợ xấu ngân hàng sẽ tăng lên.
T.P