Căng thẳng về địa chính trị và chi phí cao ở Trung Quốc đang thúc đẩy các công ty lớn tìm kiếm địa điểm sản xuất mới. Biểu hiện kinh tế mạnh mẽ của Việt Nam gần đây đã thu hút sự chú ý của các công ty châu Âu.
Trang Deutsche Welle của Đức ngày 10/6 đăng bài viết cho rằng, mặc dù Trung Quốc vẫn là một căn cứ sản xuất quan trọng trên toàn cầu, nhưng trong những năm gần đây, Việt Nam đã trở thành một lựa chọn khác hấp dẫn hơn đối với nhiều công ty lớn. Việt Nam là một trong số ít quốc gia châu Á không bị suy giảm kinh tế trong đại dịch COVID-19 từ 2020-2021. Theo ước tính của Ngân hàng Thế giới (WB), GDP của Việt Nam sẽ tăng trưởng khoảng 5,5% trong năm nay.
Bài báo viết, trên thực tế, hoạt động kinh tế của Việt Nam trong và sau đại dịch đã thu hút sự chú ý của một số công ty lớn của châu Âu. Công ty cung cấp ô tô Brose của Đức có 11 nhà máy ở Trung Quốc, đang quyết định chọn Việt Nam hoặc Thái Lan làm địa điểm sản xuất mới.
Công ty Lego của Đan Mạch vào tháng 12/2021 đã thông báo rằng họ sẽ xây dựng một nhà máy trị giá 1 tỷ USD (935 triệu euro) ở gần Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là một trong những dự án đầu tư lớn nhất của châu Âu vào Việt Nam cho đến nay.
Ông Daniel Muller ở Mạng lưới Thương mại Đông Á (OAV) của Đức cho biết: “Hiện nay đặc biệt ngày càng nhiều công ty quy mô trung bình đang cố gắng thâm nhập thị trường Việt Nam hoặc rút nhà máy khỏi Trung Quốc trên diện rộng”.
Bài báo nêu vấn đề “Tại sao các công ty rời khỏi Trung Quốc?” và lý giải: Các công ty châu Âu đang tìm kiếm các giải pháp thay thế để đặt địa điểm sản xuất bên ngoài Trung Quốc vì một số nguyên nhân, trong đó có việc tăng lương ở Trung Quốc trong những năm gần đây, khiến nước này kém hấp dẫn hơn đối với các nhà sản xuất giá thành rẻ.
Theo phân tích của cơ quan xếp hạng tín nhiệm Moody’s, mức lương trung bình hàng năm ở Trung Quốc đã tăng từ khoảng 5.120 euro (5.400 USD) năm 2010 lên 13.670 euro vào năm 2020.
Đối với khía cạnh địa chính trị, quan hệ của Trung Quốc với nhiều chính phủ châu Âu xấu đi vào năm 2021, khi Liên minh châu Âu áp đặt các biện pháp trừng phạt đối với Trung Quốc vì hành vi đàn áp người thiểu số Hồi giáo Duy Ngô Nhĩ ở khu vực Tân Cương. Sau đó, Bắc Kinh đã áp đặt các lệnh trừng phạt đối với các quan chức EU, và nhiều thương vụ đầu tư đạt được trong quá khứ đã bị gác lại.
Ngoài ra, chính sách “Zero Covid” mà Bắc Kinh vẫn đang thực hiện cho đến nay đã khiến chuỗi cung ứng toàn cầu rơi vào hỗn loạn và việc phong thành dẫn đến sản xuất đình trệ, điều này cũng làm lung lay niềm tin của các công ty EU vào Trung Quốc như một địa điểm sản xuất đáng tin cậy.
Mới đây, Thượng Hải đã mở cửa trở lại sau nhiều tháng bị đóng cửa, trong khi một số khu vực của thủ đô Bắc Kinh đã bị phong tỏa trong nhiều tháng.
Những yếu tố này đã làm suy yếu nền kinh tế Trung Quốc, và một số nhà phân tích thậm chí đã cảnh báo rằng tăng trưởng GDP của Trung Quốc trong năm nay có thể thấp hơn nhiều mục tiêu đề ra. Theo Ngân hàng Thế giới, GDP của Trung Quốc chỉ tăng 4,8% trong ba tháng đầu năm 2022, thấp hơn nhiều so với mục tiêu chính thức hàng năm là 5,5%.
Raphael Mok, người chủ quản về rủi ro ở các quốc gia châu Á tại Công ty tư vấn Fitch Group, nói với Deutsche Welle: “Ngay cả trước đại dịch, chúng tôi đã thấy các công ty, đặc biệt là những công ty trong lĩnh vực sản xuất sử dụng nhiều lao động, bắt đầu chuyển từ Trung Quốc sang các quốc gia khác của châu Á có chi phí thấp hơn, trong đó có Việt Nam”.
Ông nói thêm rằng Việt Nam đã trở thành một điểm đến hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư với tầng lớp trung lưu đang tăng nhanh, mức lương thấp hơn ở Trung Quốc; còn chính phủ Trung Quốc đang đầu tư rất nhiều vào cơ sở hạ tầng địa phương.
EU và Việt Nam đã phê chuẩn các hiệp định thương mại tự do vào năm 2020, trong đó có Hiệp định Bảo hộ Đầu tư Việt Nam – EU (EVIPA). Kim ngạch thương mại song phương đã tăng lên 49 tỷ euro vào năm 2021, cao hơn mức 20,8 tỷ euro của năm 2012 khi EU và Việt Nam bắt đầu đàm phán về Hiệp định thương mại tự do (EVFTA).
Một báo cáo của German Trade and Invest (Phòng Đầu tư và Mậu dịch Đức) chỉ ra rằng, các hiệp định này cũng giúp các công ty châu Âu tiếp cận mua sắm công tại Việt Nam dễ dàng hơn. Điều này bao gồm các dự án hợp tác công tư được chính quyền yêu thích nhất. Theo Hiệp định Bảo hộ Đầu tư giữa EU và Việt Nam, tỷ lệ sở hữu tối đa của nước ngoài trong các ngân hàng thương mại đã tăng từ 30% lên 49%.
Ông Matthijs van den Broek thuộc Hiệp hội Doanh nghiệp Hà Lan tại Việt Nam (DBAV) chỉ ra rằng liệu Việt Nam có thay thế Trung Quốc trở thành lựa chọn hàng đầu cho ngành sản xuất hay không vẫn còn phải chờ xem.
Ông Matthijs nói: “Trung Quốc quá lớn và quá tiên tiến để không thể không trở thành một phần trong chiến lược châu Á”, và nói thêm: “Việt Nam vẫn chưa thể sánh ngang với Trung Quốc về trình độ học vấn, lao động có tay nghề cao, cơ sở hạ tầng và logistics”.
Nhưng ông nói với Deutsche Welle: “Việt Nam chắc chắn sẽ ngày càng được hoan nghênh với tư cách là một địa điểm mở rộng hoặc đầu tư bổ sung bên ngoài Trung Quốc, hoặc một chiến lược Trung Quốc cộng một địa điểm khác rộng lớn hơn”.
Ông Muller ở Hiệp hội Doanh nghiệp Châu Á – Thái Bình Dương của Đức đã chỉ ra rằng sự tách biệt của Châu Âu khỏi Trung Quốc phần lớn phụ thuộc vào vị trí đặt các công ty. Ví dụ, các công ty Đức phụ thuộc nhiều hơn vào thị trường Trung Quốc so với hầu hết các nước châu Âu khác. Theo dữ liệu của Đài quan sát Phức hợp Kinh tế (OEC), năm 2020 xuất khẩu của Đức sang Trung Quốc là 99 tỷ euro, trong khi Pháp chỉ có 19 tỷ euro.
Ông Mueller nói: “Hiện không rõ liệu các công ty Đức, đặc biệt là các công ty lớn, có giảm đáng kể sản lượng ở Trung Quốc hay không. Đó là điều kiện tiên quyết để các nước như Việt Nam hy vọng có được những dự án đầu tư mới quy mô lớn”.
Ông cũng nói thêm rằng điều này cũng sẽ phụ thuộc vào loại ngành liên quan. Ông nói: “Xét về lâu dài, các công ty tham gia vào lĩnh vực sản xuất có giá trị gia tăng cao, chẳng hạn như kỹ thuật tiên tiến và thiết bị thông minh, vẫn sẽ xem xét coi Trung Quốc là nơi sản xuất vì các mối quan hệ trong chuỗi cung ứng của họ”.
Muller bổ sung, ngành sản xuất ít lợi nhuận hơn, đòi hỏi chi phí thấp và hệ thống sinh thái không quá phức tạp, có thể sẽ tiếp tục chuyển ra bên ngoài để giữ chi phí sản xuất ở mức thấp.
Ông cũng nhấn mạnh, nếu căng thẳng địa chính trị gia tăng hơn nữa trong tương lai, “các công ty sẽ không thể tránh khỏi việc tìm cách thay thế các cơ sở sản xuất ở Trung Quốc” và nói thêm rằng Việt Nam “sẽ phát huy tác dụng then chốt trong mặt này”.
T.P