Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã thách thức vị thế chủ đạo của Mỹ ở khu vực Biển Đông khiến cho cuộc cạnh tranh chiến lược giữa Mỹ và Trung Quốc ngày càng trở nên gay gắt.
Bắc Kinh đẩy mạnh tốc độ mở rộng các đảo nhân tạo cả về quy mô và mức độ tinh vi; củng cố các hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng quân sự mới ở vùng biển tranh chấp này, gồm việc xây dựng những sân bay mới và triển khai tiêm kích, máy bay ném bom chiến lược và hệ thống phòng thủ tên lửa tầm xa trên các đảo nhân tạo, biến chúng thành các đồn điền quân sự ở Biển Đông. Ngoài ra, Bắc Kinh cũng triển khai lực lượng dân quân biển, ngư dân được huấn luyện quân sự và lực lượng hải cảnh được trang bị vũ khí hạng nặng của Trung Quốc đang uy hiếp các lực lượng hải cảnh của các nước khác trong khu vực.
Trung Quốc tự vạch ra cái gọi là “Đường 9 đoạn” và tuyên bố chủ quyền đối với khu vực này. Sau khi bị Tòa Trọng tài Thường trực vụ kiện Biển Đông do Philippines khởi xướng ra phán quyết 12/7/2016 bác bỏ yêu sách thì Bắc Kinh thúc đẩy cái gọi là “Tứ Sa” đưa ra yêu sách với một khu vực còn rộng lớn “Đường 9 đoạn” ở Biển Đông. Đáp lại, Mỹ đã triển khai lực lượng hải quân, không quân đến khu vực để tiến hành các hoạt động tự do hàng hải, hàng không ở Biển Đông.
Ấn Độ đã áp dụng chính sách “Vùng lân cận mở rộng” và chính sách “Hành động phía Đông” để củng cố phạm vi ảnh hưởng của mình trong khu vực. Trái ngược với chính sách của Trung Quốc sử dụng đe dọa vũ lực để giải quyết tranh chấp với các nước trong khu vực, Ấn Độ đang thúc đẩy một trật tự dựa trên luật lệ, bao gồm việc duy trì Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS) – một khuôn khổ luật biển quốc tế mà Trung Quốc không tuân thủ mặc dù họ đã là thành viên UNCLOS thừa nhận.
Trong hơn 2 thập kỷ qua, Ấn Độ đã triển khai hải quân ở Biển Đông. Lần đầu tiên New Delhi triển khai hải quân là vào năm 2001 để thể hiện năng lực ngày càng lớn của hải quân nước này cũng như để chiếm được lòng tin và sự tín nhiệm của các nước trong khu vực. Thời gian gần đây, hải quân Ấn Độ ngày càng tăng cường hiện diện trong khu vực và thường xuyên thực hiện các chuyến thăm hữu nghị khi cập cảng các nước như Việt Nam, Philippines, Nhật Bản, Hàn Quốc và Malaysia.
Gần đây, để thể hiện sự tự tin ngày càng tăng của mình, Hải quân Ấn Độ bắt đầu triển khai tàu thuyền về phía Đông đến Tây Thái Bình Dương. Hồi năm 2021, Hải quân Ấn Độ đã điều 4 tàu chiến, gồm một tàu khu trục tên lửa dẫn đường và một tàu khu trục tên lửa, tới Đông Nam Á, Biển Đông và Tây Thái Bình Dương. Hải quân Ấn Độ cũng tiến hành các cuộc tập trận (PASSEX) với các lực lượng hải quân của các nước khác trong khu vực. Các nước trong khu vực như Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Việt Nam và Singapore là đối tác chủ chốt của Ấn Độ trong các cuộc tập trận này. Trong nỗ lực mở rộng đối tác, Ấn Độ cũng đã mời Hàn Quốc tham gia các cuộc tập trận hải quân đa phương trong năm 2022.
Tuy nhiên, cho đến nay, sự hậu thuẫn của New Delhi với các nước khu vực trên vấn đề tranh chấp Biển Đông vẫn còn rất hạn chế chưa xứng tầm với vị thế của Ấn Độ. Nhiều học giả còn ví Ấn Độ chỉ như “thùng rỗng kêu to” trên vấn đề Biển Đông, nói nhiều hơn hành động. Trong khu vực châu Á, Ấn Độ là nước lớn thứ 2 sau Trung Quốc và chỉ có Ấn Độ đủ sức “đương đầu” với Trung Quốc trên các vấn đề khu vực, bao gồm Biển Đông, song do còn e dè Bắc Kinh nên New Delhi không muốn đối đầu trực diện ở Biển Đông. Ngay cả trong lĩnh vực pháp lý, mặc dù là nước luôn đề cao tinh thần thượng tôn pháp luật, coi trọng công cụ pháp lý, nhưng Ấn Độ chưa tham gia vào cuộc chiến pháp lý xung quan vấn đề Biển Đông, trong khi Mỹ và nhiều nước đã gửi công hàm lên Liên hợp quốc bày tỏ quan điểm pháp lý chính thức của mình trên các vấn đề liên quan ở Biển Đông, bác bỏ các yêu sách phi lý của Trung Quốc.
Đã đến lúc Ấn Độ cần thể hiện một lập trường cứng rắn hơn nữa trước những hoạt động bành trướng của Trung Quốc trên các vùng biển quốc tế; đã đến lúc New Delhi cần phải từ bỏ quan điểm mang tính lý tưởng và đạo đức của mình là không tham gia vào các tranh chấp cũng như không đứng về bên nào trong tranh chấp, mà cần áp dụng một cách tiếp cận thực tế và thực dụng hơn. Hiện là thời cơ để Ấn Độ có thể đóng vai trò lớn hơn ở Biển Đông, bởi lẽ:
Thứ nhất, Washington đang bận tâm với chiến dịch quân sự của Nga ở Ukraine, Trung Quốc sẽ nắm bắt thời cơ này để triển khai một cách mạnh mẽ và cứng rắn hơn nữa các kế hoạch mở rộng bành trướng ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Do bản chất cuộc xung đột này ở châu Âu nên Washington có thể sẽ không thể nhanh chóng xử lý được tình hình để có thể hướng mối quan tâm tới việc ngăn chặn, kiềm chế Trung Quốc ở Biển Đông và trong khu vực. Vì vậy, đây chính là thời điểm để Bắc Kinh đẩy mạnh tiến hành những kế hoạch ở Biển Đông cũng như ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương rộng lớn hơn.
Là một trong những nền kinh tế lớn nhất và nền dân chủ hàng đầu ở châu Á và cũng sẽ bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi sự bành trướng của Trung Quốc trong khu vực, Ấn Độ không thể đơn thuần chỉ “khoanh tay ngồi nhìn” trước những hoạt động hung hăng xâm lấn chủ quyền biển đảo các nước láng giềng ven Biển Đông của Trung Quốc mà New Delhi cần hành động một cách quyết liệt hơn.
Thứ hai, Ấn Độ có lợi ích to lớn ở Biển Đông. Có tới khoảng 55% hoạt động thương mại của New Delhi đi qua Biển Đông. Do đó, Biển Đông đảm bảo sự thịnh vượng kinh tế và an ninh hàng hải của Ấn Độ theo nhiều cách khác nhau. Việc Trung Quốc kiểm soát phần lớn Biển Đông sẽ giúp lực lượng hải quân Trung Quốc tiến gần hơn đến Ấn Độ Dương và gây ra mối đe dọa hiện hữu đối với Ấn Độ. Mặc dù không ngừng gia tăng cam kết của mình trong khu vực, New Delhi khó có thể đảm bảo rằng họ sẽ đạt được hoặc đảm bảo an toàn cho những lợi ích của mình trong bối cảnh cạnh tranh quyền lực đang diễn ra gay gắt.
Mặt khác, trong 2 năm trở lại đây Trung Quốc liên tiếp có các hành động gây hấn trên biên giới đất liền với Ấn Độ. Việc New Delhi hành động mạnh mẽ ngăn chặn sự bành trướng của Bắc Kinh còn được coi như “mở mặt trận thứ hai” để ứng phó với Trung Quốc, giúp giảm tải những sức ép của Bắc Kinh trên biên giới đất liền Ấn Độ – Trung Quốc. Do đó, đã đến lúc Ấn Độ phải điều chỉnh chính sách và cách tiếp cận của mình đối với khu vực.
Khi xung đột xảy ra ở châu Âu, Ấn Độ hiện phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Trước những hành động ngày càng bạo trợn của Trung Quốc, mức độ hiện diện hải quân hiện tại của Ấn Độ có thể không đủ mạnh để bảo vệ tuyến giao thương hàng hải của New Delhi trên Biển Đông. Ngoài ra, Ấn Độ cũng phải lo lắng xoay xở cách thức bảo vệ và thúc đẩy an ninh ở Đông Ấn Độ Dương trước sự hiện diện quy mô lớn của Hải quân Trung Quốc ở các vùng biển lân cận.
Thứ ba, Ấn Độ có mối quan hệ tốt với các nước ven Biển Đông cũng như cả khối ASEAN chẳng hạn như: Ấn Độ có mối quan hệ truyền thống hữu nghị lâu đời, không chỉ có quan hệ hợp tác quân sự tốt với Hà Nội, New Delhi còn triển khai các dự án hợp tác dầu khí với Việt Nam ở Biển Đông…; Singapore đang nổi lên là một đối tác quan trọng trong nỗ lực của Ấn Độ nhằm tăng cường sự can dự của New Delhi trong khu vực. Singapore đã ký Thỏa thuận Hợp tác Quốc phòng hồi năm 2003 và Thỏa thuận Tập trận chung hồi năm 2007 để hỗ trợ các hoạt động của Hải quân Ấn Độ ở Biển Đông. Cuộc tập trận song phương hàng hải Ấn Độ-Singapore (SIMBEX) được tiến hành hàng năm kể từ năm 1994 đang tạo ra một động lực to lớn cho sự hiện diện của hải quân Ấn Độ trong khu vực; gần đây, Philippines trở thành đối tác hợp tác quân sự quan trọng của Ấn Độ khi Manila mua các tên lửa BrahMos của Ấn Độ; với Indonesia và Malaysia, Ấn Độ luôn có quan hệ hợp tác mật thiết…. Đây chính là nhân tố giúp Ấn Độ có thể phát huy vai trò lớn hơn nữa ở Biển Đông.
Ngoài ra, một lợi thế của New Delhi trong việc tiến hành giám sát và theo dõi tình hình ở Biển Đông là nước này sở hữu những cảng nước sâu ở Vịnh Campbell thuộc quần đảo Nicobar; với vị trí địa lý gần gũi, Ấn Độ có thể nhanh chóng triển khai các tàu chiến tới eo biển Malaca và Biển Đông. Vấn đề đặt ra là Ấn Độ cần làm gì để có thể đóng vai trò lớn hơn ở Biển Đông? Các nhà phân tích quốc tế đã nêu ra một số việc Ấn Độ cần thúc đẩy, cụ thể là:
Trước hết, Ấn Độ nên có hình thức chính thức bày tỏ quan điểm pháp lý rõ ràng trên các vấn đề liên quan ở Biển Đông như Mỹ và các nước Úc, Anh, Pháp, Đức, Nhật Bản, New Zealand đã làm. Theo đó, bác bỏ các yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông; đề cao giá trị pháp lý phán quyết năm 2016 của Tòa Trọng tài Thường trực La Haye, yêu cầu Trung Quốc thực thi phán quyết. Ấn Độ thể hiện là một cường quốc có trách nhiệm trong việc thực thi phán quyết năm 2014 của Tòa Trọng tài về phân định biển giữa Ấn Độ và Bangladesh mặc dù phán quyết này bất lợi cho New Delhi, do vậy đây được coi là hình mẫu để Trung Quốc noi theo và Ấn Độ xứng đáng để đề cao vấn đề tuân thủ phán quyết ở Biển Đông.
Vì vậy, với uy tín trong việc tuân thủ luật pháp quốc tế của mình, Ấn Độ cần đóng vai trò tích cực hơn nữa trong việc xây dựng một trật tự dựa trên luật lệ và xây dựng các thể chế giải quyết tranh chấp. New Delhi cần củng cố và tăng cường giúp đỡ các nước khu vực trong cuộc chiến pháp lý với Trung Quốc về tranh chấp Biển Đông tại các tòa án quốc tế và thể chế pháp lý khác.
Hơn thế nữa, giới phân tích cho rằng việc Ấn Độ chính thức công bố lập trường pháp lý trên các vấn đề tranh chấp ở Biển Đông dưới hình thức Tuyên bố của Chính phủ, Bộ Ngoại giao hay gửi công hàm lên Liên hợp quốc sẽ tạo cơ sở pháp lý cho New Delhi hành động mạnh mẽ hơn trước các hành động hung hăng, bất chấp luật pháp quốc tế của Trung Quốc ở Biển Đông.
Hai là, việc New Delhi tăng cường hợp tác hải quân với các nước khu vực là đáng khích lệ, song chưa đủ để ngăn chặn Bắc Kinh khi xét đến việc Trung Quốc nỗ lực uy hiếp các nước trên nhiều lĩnh vực. Vì vậy, bên cạnh việc tiếp tục triển khai các cuộc tập trận hải quân chung, đã đến lúc Ấn Độ cần tập trung hơn nữa vào việc liên kết chính sách quốc phòng và an ninh với các nước trong khu vực. New Delhi cần ưu tiên tăng cường xây dựng quan hệ hợp tác quân sự ngày càng sâu rộng trên tất cả các khía cạnh.
Hiện các nước trong khu vực đang nỗ lực đẩy mạnh các chương trình hiện đại hóa quốc phòng nhằm tăng cường năng lực quân sự của mình. Cho đến nay, vai trò hỗ trợ của New Delhi đối với những chương trình nói trên còn rất khiêm tốn. Ấn Độ rất hiếm khi cung cấp công nghệ quốc phòng và hệ thống vũ khí hiện đại nhất của mình cho các nước khu vực. Lâu nay, những quyết định của New Delhi trong việc cung cấp công nghệ và hệ thống vũ khí hiện đại nhất dựa trên những tính toán kinh tế đơn thuần. Ấn Độ cần thay đổi tư duy này, theo đó, cần bắt đầu tính toán đến những lợi ích an ninh và chiến lược của mình.
Đã đến lúc Ấn Độ cần tăng cường mức độ hỗ trợ và giúp đỡ các nước trong khu vực, nhất là các nước ven Biển Đông trong công cuộc hiện đại hóa năng lực quân sự của họ. Mặt khác, Ấn Độ cần hỗ trợ các nước này, nhất là các nước đang phải đối đầu với sự gây hấn của Trung Quốc, tăng cường năng lực thực thi pháp luật trên biển.
Ba là, Ấn Độ cần đi đầu trong việc xây dựng một cơ chế an ninh tập thể mới trong khu vực. Xét đến thực tế là không một quốc gia nào trong khu vực có đủ năng lực quân sự để chống lại Trung Quốc mà cần có sự phối hợp chặt chẽ với các quốc gia liên quan. Ấn Độ cần phải xây dựng và thông qua một cơ chế an ninh tập thể với các nước trong khu vực, đồng thời xác lập một cơ chế răn đe mạnh mẽ đối với Trung Quốc nhằm ngăn chặn bước tiến của Bắc Kinh đến Ấn Độ Dương. Giới học giả cho rằng đã qua rồi cái thời của chủ nghĩa hòa bình và các chính sách hòa hoãn đối với Trung Quốc.
Nhiệm vụ cấp bách lúc này là xây dựng những cơ chế và thể chế an ninh tập thể. Việc đạt được sự đồng thuận giữa các nước đóng vai trò rất quan trọng trong nỗ lực để xây dựng các thể chế an ninh tập thể cho khu vực. Theo đó, New Delhi cần nỗ lực nhiều hơn vào việc thu hẹp sự khác biệt về chính sách với các nước khác và thấu hiểu được mối quan tâm và lo ngại của các nước khác trước sự bành trướng của Trung Quốc để có thể xây dựng được mối quan hệ đối tác hoạt động hiệu quả.
Khi Mỹ bận rộn ở châu Âu, các bên tranh chấp ở Biển Đông sẽ phải vạch ra chiến lược của riêng mình để duy trì hòa bình và an ninh khu vực. Trong bối cảnh khó khăn như hiện nay, việc các nước hoạch định chiến lược để duy trì an ninh và hòa bình khu vực không còn là chuyện đơn thuần của một quốc gia. Thay vào đó, các nước cần khẩn trương xây dựng một cơ chế “an ninh tập thể” để chống lại những hành động bành trướng của Trung Quốc ở Biển Đông.
Bốn là, Ấn Độ cần có cách tiếp cận thực chất hơn trong lĩnh vực kinh tế bởi hợp tác kinh tế luôn là mối quan tâm hàng đầu của các nước Đông Nam Á, bao gồm các nước ven Biển Đông, nhất là trong quá trình phục hồi kinh tế sau đại dịch Covid-19. Trung Quốc đang sử dụng sức mạnh kinh tế của mình để thâm nhập sâu rộng vào các nền kinh tế trong khu vực; dùng tài chính để mua chuộc, phân hóa các nước trong khu vực trên vấn đề Biển Đông. Trong khi đó hợp tác kinh tế giữa Ấn Độ với các nước Đông Nam Á còn ở mức quá khiêm tốn, ảnh hưởng về kinh tế của Ấn Độ ở khu vực còn quá nhỏ bé so với Trung Quốc.
Do vậy, đã đến lúc New Delhi bắt đầu chuẩn bị các chính sách kính thích hợp tác kinh tế đặc biệt để thúc đẩy giới doanh nghiệp Ấn Độ đầu tư nhiều hơn vào các nước ven Biển Đông. Vì khả năng can dự kinh tế sâu rộng hơn với các nước khu vực cũng đóng vai trò then chốt trong nỗ lực đối trọng với tầm ảnh hưởng kinh tế của Bắc Kinh trong khu vực, giúp cho New Dehli có thể phát huy vai trò lớn hơn trong các vấn đề an ninh ở Biển Đông.
Năm là, Ấn Độ phải thể hiện chủ nghĩa tích cực to lớn hơn nữa về mặt ngoại giao mà không gây phương hại đến khả năng ứng phó của các nước trong khu vực và không kích động Trung Quốc đáp trả ở Nam Á. Việc tìm cách xây dựng các cơ chế giải quyết xung đột đa phương nhằm xử lý các tranh chấp biên giới, đồng thời tránh để xảy ra xung đột ở Biển Đông và đảm bảo rằng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) hoàn toàn phù hợp với Công ước Liên hợp quốc về Luật biển là những thách thức to lớn đối với Ấn Độ. New Delhi hiện cũng đang cố gắng đảm bảo các cuộc đàm phán khu vực về COC không gây phương hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của các quốc gia không tham gia vào các cuộc đàm phán này. Ngoài ra, New Delhi cũng cần thắt chặt hơn nữa mối quan hệ lịch sử với các nước khu vực thông qua các hoạt động giao lưu văn hóa và nhân dân, nhằm nâng cao nhận thức và hiểu biết của người dân Ấn Độ về các nước ven Biển Đông. Vì trong trường hợp xảy ra xung đột ở vùng biển này, sự ủng hộ của người dân Ấn Độ sẽ trở thành nhân tố quan trọng giúp chính quyền New Delhi củng cố hơn nữa lập trường chính sách trong khu vực. Giới hoạch định chính sách Ấn Độ cần khẩn trương chuẩn bị những đối sách trong trường hợp xảy ra kịch bản này.