Monday, November 18, 2024
Trang chủGóc nhìn mớiĐài Loan “Nước đến chân mới nhảy”

Đài Loan “Nước đến chân mới nhảy”

Gần một năm sau khi Nga xâm lược Ukraine, nhà báo Max Boot của Washington Post đã đến thăm Đài Loan một lần nữa, tác giả chỉ ra rằng chuyến thăm này không chỉ khiến ông cảm thấy phấn khích mà còn lo lắng về Đài Loan. Ông tin rằng mối đe dọa của Đảng Cộng sản Trung Quốc đối với Đài Loan sắp xảy ra, nhưng Đài Loan dường như vẫn chưa sẵn sàng cho chiến tranh.

Tiêm kích F-16V của phòng vệ Đài Loan.

Điều đáng khích lệ là người dân Đài Loan đã cố gắng xây dựng một nền dân chủ thịnh vượng dưới cái bóng của các cuộc tấn công liên tục của Bắc Kinh. Đài Bắc là một thành phố sôi động với 2,6 triệu dân, có nhiều khu phức hợp văn phòng và căn hộ cao tầng, trung tâm mua sắm và “chợ đêm”, quán mì bò và quán trà sữa trân châu. Trên thực tế, nó tự do hơn và giàu có hơn (GDP bình quân đầu người cao gần gấp ba lần) so với đại lục. Tuy nhiên, Đài Loan chỉ là một hòn đảo nhỏ hơn West Virginia, với dân số chỉ 23,5 triệu người, nhưng lại sản xuất hơn 90% chất bán dẫn tiên tiến nhất thế giới. Trong khi Trung Quốc đại lục chỉ mới thoát khỏi cái lồng của chính sách zero covid do nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc Tập Cận Bình ủng hộ, thì Đài Loan đã trở lại bình thường từ lâu.

Mặc dù vậy, thật khó chịu khi nghĩ rằng tất cả những điều này một ngày nào đó có thể nhanh chóng biến thành tro bụi, như trường hợp đã xảy ra ở nhiều thành phố của Ukraine. Các tòa nhà chọc trời của Đài Loan — bao gồm tòa nhà Đài Bắc 101 mang tính biểu tượng, một trong những tòa nhà cao nhất thế giới — là mục tiêu dễ dàng cho các tên lửa của Trung Quốc.

Tất nhiên, mối đe dọa này không phải là mới. Đài Loan là mục tiêu của Bắc Kinh kể từ năm 1949. Nhưng kể từ khi Nga tiến hành một cuộc tấn công vào Ukraine, người ta phát hiện ra rằng sự gây hấn trần trụi như vậy vẫn xảy ra trong xã hội hiện đại. Cuộc xâm lược man rợ này đang xảy ra ở Ukraine, và có thể xảy ra ở Đài Loan trong tương lai gần, vì ông Tập Cận Bình luôn khẳng định Đài Loan là lãnh thổ của Trung Quốc. Mặc dù nhiều người Đài Loan nói chung vẫn tin rằng chiến tranh sẽ không xảy ra, nhưng các quan chức Đài Loan đã nhận ra mối nguy hiểm và đã có những chuẩn bị muộn màng cho một cuộc chiến như vậy.

Đài Loan cuối cùng cũng tăng cường phòng thủ nhưng liệu có quá ít, quá muộn?

“Chúng tôi biết rằng mối đe dọa quân sự của Trung Quốc đối với Đài Loan là rất nghiêm trọng”, Ngoại trưởng Đài Loan Ngô Chiêu Nhiếp cho biết vào tuần trước. “Chúng tôi cần tăng cường phòng thủ vì chúng tôi biết Trung Quốc có thể tấn công bất cứ lúc nào.”

Thời gian gần đây, máy bay quân sự Trung Quốc liên tục xâm phạm vùng nhận dạng phòng không của Đài Loan và con số này đã tăng gần gấp đôi vào năm 2022.

Nhiều người Đài Loan trông cậy vào Hoa Kỳ cung cấp viện trợ trong trường hợp xảy ra chiến tranh ở Đài Loan, nhưng Washington từ lâu đã theo đuổi chính sách “mơ hồ chiến lược”, vì vậy không chắc liệu Hoa Kỳ có thực sự cung cấp hỗ trợ vào thời điểm đó hay không. Nhưng dựa vào cuộc chiến ở Ukraine đã thuyết phục các quan chức Đài Loan rằng, ít nhất để giành được sự ủng hộ của quốc tế, họ cần thể hiện khả năng và ý chí của mình. “Bảo vệ Đài Loan là trách nhiệm của chúng tôi,” ông Ngô nói. “Nếu bản thân Đài Loan không sẵn sàng thể hiện sự sẵn sàng tự bảo vệ mình, thì Đài Loan không có quyền yêu cầu bất kỳ quốc gia nào khác bảo vệ Đài Loan.”

Trên thực tế, Đài Loan đã thực hiện các bước để tăng cường khả năng phòng thủ nhằm đối phó với mối đe dọa ngày càng tăng từ Trung Quốc. Chính phủ do Tổng thống Thái Anh Văn đứng đầu đã tăng ngân sách quốc phòng cho năm 2023 lên 13,9%, kéo dài thời gian thực hiện nghĩa vụ quân sự bắt buộc từ bốn tháng lên một năm và mua tên lửa chống hạm Harpoon, tên lửa phòng không Stinger và HIMARS cùng các hệ thống vũ khí tiên tiến khác.

Tuy nhiên, Đài Loan, nơi có quy mô và dân số nhỏ hơn nhiều so với Ukraine, vẫn còn một chặng đường dài phía trước để thực sự ngăn chặn chính quyền Trung Quốc, quốc gia có dân số và sức mạnh vượt xa Nga. Mặc dù ngân sách quốc phòng của Đài Loan đang tăng lên nhưng vẫn chỉ chiếm 2,4% GDP—thấp hơn của Hoa Kỳ. Mặc dù những người lính nghĩa vụ sẽ sớm phục vụ lâu hơn trong quân đội, nhưng họ vẫn phục vụ ít thời gian hơn so với Israel hoặc Hàn Quốc.

Ngoài việc tăng chi tiêu quốc phòng và tuyển thêm quân nhân, Đài Loan cũng phải cải tổ quân đội. Các lực lượng vũ trang của Đài Loan rất truyền thống, chỉ dựa vào tàu mặt nước, xe tăng và máy bay chiến đấu. Tuy nhiên, các tàu nổi, xe tăng và máy bay chiến đấu này khó có thể sống sót trước tên lửa của Trung Quốc. Theo sự thúc giục của Washington, người Đài Loan đang cố gắng định hướng lại xung quanh một “chiến lược bất đối xứng” để sử dụng tên lửa của chính họ nhằm vào các cuộc tấn công đổ bộ của Trung Quốc.

Nhưng cách tiếp cận này vẫn đang ở giai đoạn đầu và một số quan chức quân sự cấp cao của Đài Loan vẫn phản đối. Nhiều hệ thống mà Đài Loan muốn mua từ Mỹ, chẳng hạn như HIMARS và Stingers, có thể mất nhiều năm mới đến tay người dùng vì công suất hạn chế được chuyển đến Ukraine trước. Các quan chức quân đội Đài Loan nói rằng họ chỉ mới bắt đầu kết hợp máy bay không người lái vào lực lượng vũ trang. Và trong khi họ đã chế tạo tên lửa chống hạm, tên lửa phòng không và tàu ngầm của riêng mình, thì giờ đây họ mới chỉ nói về việc sản xuất máy bay không người lái quân sự. Ngược lại, Trung Quốc đã trở thành nhà sản xuất hệ thống máy bay không người lái lớn nhất thế giới.

Ngoài việc mất nhiều năm để Đài Loan có được phần cứng mới, Đài Loan cũng sẽ cần đào tạo mới để sử dụng tất cả các hệ thống mới này hiệu quả hơn. Hoa Kỳ nên tăng cường huấn luyện quân đội Đài Loan, vì dù Hoa Kỳ đã huấn luyện quân đội Ukraine từ năm 2014, và xem xét cho phép Đài Loan tham gia các cuộc tập trận quân sự chung giữa Hoa Kỳ và các quốc gia Thái Bình Dương khác. Nhưng ngay cả điều đó sẽ không tạo ra kết quả ngay lập tức.

Câu hỏi đặt ra là liệu Đài Loan có đủ thời gian để chuẩn bị hay không. Đài Loan và Trung Quốc đang chạy đua hiện đại hóa lực lượng vũ trang của họ — và Quân đội Trung Quốc được tài trợ tốt hơn. CIA báo cáo rằng trong khi ông Tập Cận Bình chưa đưa ra quyết định tấn công, ông ta hy vọng có thể chiếm Đài Loan vào năm 2027. Bộ trưởng Quốc phòng của Đài Loan cho biết một cuộc xâm lược có thể xảy ra ngay sau năm 2025. Nếu Đài Loan muốn ngăn chặn mối đe dọa này, Hoa Kỳ sẽ phải xây dựng sức mạnh của mình ở Thái Bình Dương.

Các quan chức và nhà phân tích Đài Loan đang theo dõi chặt chẽ cuộc chiến Ukraine như một tấm gương phản chiếu cách họ bảo vệ lãnh thổ của mình. Người Đài Loan tin rằng thành công của Ukraine trước Nga và sự ủng hộ của quốc tế nên ngăn chặn Tập Cận Bình trước khi phát động chiến tranh. Nhưng ông Tập cũng có thể học được một bài học gây sốc từ cuộc chiến Nga-Ukraine rằng: Mối đe dọa hạt nhân của Nga đang ngăn cản Hoa Kỳ gửi quân đội của mình đến hỗ trợ Ukraine. Có lẽ điều này cũng có nghĩa là Hoa Kỳ sẽ không mạo hiểm gây chiến với một Trung Quốc trang bị vũ khí hạt nhân vì Đài Loan?

Ngoài ra còn có một điểm khác biệt chính giữa Ukraine và Đài Loan: Ukraine có đường tiếp tế an toàn với các thành viên NATO, trong khi Đài Loan là một hòn đảo có thể bị cắt đứt bởi một cuộc phong tỏa. Đài Loan cần phải chuẩn bị cho một cuộc bao vây lâu dài, nhưng rõ ràng Đài Loan hiện không có đủ dự trữ năng lượng, thực phẩm, thuốc men hoặc đạn dược. Đài Loan hiện chỉ có trữ lượng khí đốt tự nhiên khoảng 10 ngày, và đảng cầm quyền vẫn đang kiên quyết thúc đẩy loại bỏ dần các nhà máy điện hạt nhân. Đài Loan phụ thuộc vào nhập khẩu 98% năng lượng, trên thực tế, Đài Loan nên mở rộng ngành công nghiệp điện hạt nhân chứ không phải đóng cửa.

Thật không may, nhiều người Đài Loan dường như vẫn không nhận ra tình hình của họ nguy hiểm như thế nào. Một cuộc thăm dò vào tháng 8 cho thấy chỉ 39% người Đài Loan trưởng thành cho biết chiến tranh rất có thể xảy ra hoặc có khả năng xảy ra, trong khi 53% cho rằng điều đó khó xảy ra hoặc có thể xảy ra.

Thái độ của họ khiến phóng viên nhớ đến nhiều người Ukraine, bao gồm cả Tổng thống Volodymyr Zelensky, người cho đến giây phút cuối cùng vẫn phủ nhận rằng Nga sẽ thực sự xâm lược. Trong khi người Ukraine đã chứng tỏ mình là những người bảo vệ mạnh mẽ và tài giỏi, họ đã không thành công trong việc ngăn chặn những kẻ xâm lược và tránh chiến tranh. Đài Loan không được phạm sai lầm như vậy một lần nữa. Mặc dù Đài Loan đã có khởi đầu tốt trong việc xây dựng lại hệ thống phòng thủ bắt đầu từ những năm 1990, nhưng vẫn còn một chặng đường dài phía trước và thời gian không còn nhiều.

T.P

RELATED ARTICLES

Tin mới