Bị phương Tây “ghẻ lạnh”, Nga đã chuyển hướng mạnh việc xuất khẩu dầu của mình sang châu Á. Chiến lược này đã có hiệu quả: Nga đã tăng thu từ xuất khẩu năng lượng.
Khả năng tiếp cận các cảng dầu, các đường ống rộng lớn, đội tàu chở dầu lớn là nguyên giúp Nga “né” được các lệnh trừng phạt.
Nguyên nhân Nga vẫn duy trì được dòng dầu bất chấp các lệnh trừng phạt
Đợt trừng phạt mới nhất nhằm cắt giảm nguồn thu từ dầu của Nga đã có hiệu lực vào 5/2, khi EU đặt lệnh cấm vận đối với dầu diesel, xăng và các sản phẩm dầu tinh chế khác của Nga.
Trước đó, nhóm G7 cũng đặt ra mức giá trần đối với dầu diesel và các sản phẩm dầu khác của Nga.
Việc tăng dần các biện pháp trừng phạt dầu mỏ, nhằm cắt giảm doanh thu xuất khẩu dầu mỏ của Nga mà không dập tắt sự phục hồi mong manh do đại dịch toàn cầu, là một chính sách mà các nhà phân tích cho rằng có thể mất nhiều năm mới có kết quả.
Edward Fishman, cựu quan chức của Bộ Ngoại giao Mỹ, cho biết: “Nói chung, các lệnh trừng phạt giống như một cuộc chạy marathon hơn là một cuộc chạy nước rút. Các biện pháp trừng phạt nên là một biện pháp lâu dài”.
Một năm kể từ khi bắt đầu chiến dịch quân sự đặc biệt, Nga đã có thể duy trì dòng dầu của mình.
Trong cả năm 2022, Nga đã cố gắng tăng sản lượng dầu 2% và tăng thu nhập từ xuất khẩu dầu 20%, lên 218 tỷ USD, theo ước tính từ chính phủ Nga và Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA).
Nguồn thu của Nga được hỗ trợ nhờ giá dầu tăng tổng thể sau khi chiến dịch quân sự đặc biệt bắt đầu và nhu cầu ngày càng tăng sau các đợt phong tỏa do đại dịch. Nga cũng thu về 138 tỷ USD từ khí đốt tự nhiên, tăng gần 80% so với năm 2021 do giá kỷ lục bù đắp cho việc cắt giảm dòng chảy đến châu Âu.
Tuần trước, Quỹ Tiền tệ Quốc tế cho biết mức trần giá dầu, hiện tại là 60 USD/thùng, khó có thể ảnh hưởng đến khối lượng xuất khẩu dầu của Nga và họ dự kiến nền kinh tế Nga sẽ tăng trưởng 0,3% trong năm nay sau khi giảm 2,2% vào năm 2022.
Nga đã làm giảm tác động của các biện pháp trừng phạt của phương Tây bằng cách chuyển hướng xuất khẩu dầu thô sang Trung Quốc, Ấn Độ và Thổ Nhĩ Kỳ, khai thác khả năng tiếp cận các cảng dầu trên 3 vùng biển khác nhau, các đường ống rộng lớn, đội tàu chở dầu lớn.
Ví dụ, xuất khẩu dầu của Nga sang Ấn Độ đã tăng gấp 16 lần kể từ khi bắt đầu chiến dịch quân sự đặc biệt, trung bình 1,6 triệu thùng mỗi ngày trong tháng 12, theo IEA.
“Nga vẫn là một thế lực đáng gờm trên thị trường năng lượng toàn cầu,” Sergey Vakulenko, một học giả năng lượng tại Tổ chức Carnegie Endowment for International Peace, một nhóm nghiên cứu ở Washington, cho biết.
“Đối đầu với một người chơi lớn như vậy không hề dễ dàng chút nào, và sẽ không xảy ra trong một sớm một chiều”, ông nói thêm.
Nga giảm giá dầu chỉ là “đánh lừa”?
Lệnh cấm dầu mỏ của châu Âu và giá trần được thông qua vào ngày 5/12 gần đây đã cắt giảm nguồn tiền trong kho bạc của nước này thu được từ xuất khẩu. Trong tháng 12, doanh thu xuất khẩu dầu của Nga là 12,6 tỷ USD, thấp hơn gần 4 tỷ USD so với một năm trước đó, theo IEA ước lượng.
Điều đó phần lớn là do các công ty dầu mỏ của Nga phải giảm giá ngày càng nhiều cho nhóm người mua đang ngày càng thu hẹp.
Xu hướng dường như vẫn đang duy trì. Doanh thu của chính phủ Nga từ sản xuất và xuất khẩu dầu khí trong tháng 1 đã giảm 46% so với cùng tháng năm ngoái.
Theo công ty dữ liệu năng lượng Argus Media, chênh lệch giữa giá dầu Brent, chuẩn dầu toàn cầu và Urals, loại dầu thô xuất khẩu chính của Nga, đã tăng lên khoảng 40 USD/thùng trong tháng 1. Khoảng cách đó chỉ là một vài USD trước chiến tranh.
Bộ Tài chính Nga đã thừa nhận sự sụt giảm doanh thu từ dầu mỏ, tuần trước cho biết giá trung bình của Urals trong tháng 1 là 49,50 USD/thùng, gần bằng một nửa so với giá một năm trước đó.
Tuy nhiên, một số chuyên gia dầu mỏ cho rằng việc giảm giá mạnh cho dầu của Nga có thể là “sự đánh lừa”.
Sử dụng dữ liệu hải quan từ Ấn Độ, ông Vakulenko, chuyên gia dầu mỏ của Nga, cho thấy các nhà nhập khẩu dầu thô địa phương của Nga đã trả giá gần như tương đương với dầu thô Brent. Một phân tích của New York Times về cùng một dữ liệu đã tạo ra kết quả tương tự.
Ông Vakulenko gợi ý lời giải thích là ít nhất một phần chiết khấu lớn trên giá Ural niêm yết đã được các nhà xuất khẩu và trung gian Nga bỏ túi, và sau đó tính giá cao hơn cho khách hàng ở Ấn Độ.
Tatiana Mitrova, một chuyên gia về dầu mỏ của Nga tại Trung tâm Chính sách Năng lượng Toàn cầu tại Đại học Columbia, cho biết khoản thu này sẽ không được tính trực tiếp vào thuế của chính phủ Nga.
Nhưng vì các nhà xuất khẩu Nga có thể có quan hệ mật thiết với Điện Kremlin nên một số tiền vẫn có thể hỗ trợ cho chiến dịch quân sự, bà nói.
“Đó hoàn toàn là quỹ đen”, bà nói thêm.
Các chuyên gia đồng ý rằng về lâu dài, tương lai của doanh thu từ dầu mỏ của Nga sẽ được quyết định bởi các lực lượng kinh tế toàn cầu nằm ngoài tầm kiểm soát của lệnh trừng phạt từ phương Tây.
Và số phận của mức giá đó phần lớn phụ thuộc vào Trung Quốc, quốc gia có nền kinh tế mới bắt đầu phục hồi sau nhiều năm bị hạn chế nghiêm ngặt bởi Covid-19.
Vào tháng 12, nhập khẩu dầu thô của Trung Quốc đạt kỷ lục 16,3 triệu thùng/ngày, theo ước tính của Kpler, một công ty theo dõi vận chuyển năng lượng. Nếu xu hướng này tiếp tục, nó sẽ làm căng thẳng nguồn cung dầu toàn cầu và có lợi cho Điện Kremlin.
Thêm vào áp lực tăng giá dầu, OPEC Plus, một liên minh của Nga và Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ, cho biết sẽ duy trì các mục tiêu sản lượng hạn chế của năm ngoái, điều này có thể làm căng thẳng nguồn cung dầu nếu nhu cầu tăng.
T.P