Monday, November 18, 2024
Trang chủPháp luật biểnVăn bản pháp lý quốc tếTQ điều tàu xâm phạm vùng biển Tư Chính của Việt Nam

TQ điều tàu xâm phạm vùng biển Tư Chính của Việt Nam

1. Thềm lục địa theo quy định của luật pháp quốc tế

Khái niệm thềm lục địa trong khoa học pháp lý quốc tế ra đời là kết quả của các thành tựu khoa học, kỹ thuật biển trong vài chục năm gần đây. Kết quả đó cho phép con người đi xuống các tầng sâu của đáy biển và phát hiện ra các nguồn tài nguyên giàu có ở đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, được thúc đẩy bởi nhu cầu của con người muốn làm chủ và khai thác các nguồn tài nguyên đó phục vụ cho đời sống và phát triển, vượt qua các khó khăn về bùng nổ dân số và sự cạn kiệt dần dần tài nguyên lục địa.

Vào thời xa xưa, con người còn hình dung là biển không có đáy. Từ khi khoa học chứng minh được sự tồn tại của đáy biển với địa hình nhấp nhô đa dạng như trên đất liền đến đầu những năm 1940, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm ngoài giới hạn lãnh hải về cơ bản luôn được coi là bộ phận của biển cả, không thuộc quyền của quốc gia ven biển nào.

Năm 1942, lần đầu tiên trong lịch sử, vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển trong vịnh paria nằm ngoài giới hạn của lãnh hải, mà trước đó luôn được coi là một bộ phận của biển cả (biển quốc tế, biển công), đã được hai quốc gia là Anh và Vê-nê-zu-ê-la phân chia cùng với sự thừa nhận các quyền thuộc chủ quyền của mỗi quốc gia đối với vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển tương ứng.

Tuy nhiên, khái niệm tương đối đầy đủ đầu tiên về thềm lục địa được chính thức nêu ra vào đầu năm 1945 bởi tuyên bố của Tổng thống mỹ Harry s.Truman về “chính sách của hợp chủng quốc hoa kỳ đối với tài nguyên thiên nhiên của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của thềm lục địa”. Trong đó Mỹ thừa nhận thềm lục địa là sự mở rộng lãnh thổ đất liền của quốc gia ven biển nên thuộc quyền của quốc gia đó, quốc gia ven biển kế cận có quyền tài phán và kiểm soát đối với nguồn tài nguyên thiên nhiên của đáy và lòng đất dưới đáy của thềm lục địa nằm tiếp giáp với lãnh thổ lục địa của quốc gia ven biển. Do đó, tuyên bố quyền tài phán và kiểm soát của Mỹ đối với nguồn tài nguyên thiên nhiên của thềm lục địa bao quanh lãnh thổ lục địa Mỹ ra đến độ sâu được hiểu là không quá 100 sải (khoảng gần 200 m) nước. Bắt đầu từ thời điểm này, học thuyết về thềm lục địa phát triển và đi vào cuộc sống.

Năm 1958, cộng đồng quốc tế thành công trong việc pháp điển hoá khái niệm thềm lục địa trong luật biển quốc tế bằng việc thông qua công ước Giơnevơ về thềm lục địa cùng với ba công ước khác về lãnh hải và vùng tiếp giáp, về biển cả, về đánh bắt cá và bảo vệ tài nguyên sinh vật ở biển cả. Ngày 10/6/1964, công ước về thềm lục địa bắt đầu có hiệu lực sau khi có 22 nước phê chuẩn và tham gia.

Vào thời điểm này, khoa học cho rằng, vùng biển chạy thoai thoải từ lục địa ra biển đến nơi có sự thay đổi độ dốc đột ngột chính là sự mở rộng tự nhiên của lục địa dưới biển và là thềm lục địa. Độ sâu trung bình của mép thềm lục địa (nơi có sự biến đổi độ dốc) là khoảng 200 m nước. Công nghệ khai thác biển lúc đó cũng chỉ cho phép đến độ sâu 200 m là tối đa. Do đó, công ước năm 1958 đã xác định phạm vi “thềm lục địa pháp lý” như sau: “… thuật ngữ “thềm lục địa” được sử dụng để chỉ: a) đáy và lòng đất dưới đáy của các khu vực ngầm dưới biển tiếp giáp với bờ biển nhưng nằm ngoài lãnh hải và ra đến độ sâu 200 m nước; b) hoặc vượt ra ngoài giới hạn đó ra đến độ sâu cho phép khai thác được các tài nguyên thiên nhiên của các khu vực ngầm dưới biển đó; c) để chỉ đáy và lòng đất dưới đáy của khu vực ngầm dưới biển tương tự tiếp giáp với bờ của các đảo” (điều 1). Trong phạm vi “thềm lục địa pháp lý”, “quốc gia ven biển thực hiện các quyền chủ quyền nhằm mục đích thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên của thềm lục địa” (điều 2).

Theo Công ước, các quyền chủ quyền của quốc gia ven biển đối với thềm lục địa là riêng biệt, không ai có thể thăm dò hoặc khai thác tài nguyên của thềm lục địa mà không được sự đồng ý của quốc gia ven biển. Các quyền chủ quyền này là hiển nhiên, không phụ thuộc vào việc có chiếm hữu thực sự hay danh nghĩa, hay có bất cứ tuyên bố nào không.

Công ước cũng đề ra các trách nhiệm của quốc gia ven biển, khi thực hiện các quyền chủ quyền của mình đối với thềm lục địa, không được làm ảnh hưởng đến quy chế pháp lý khối nước (biển cả) và vùng trời ở phía trên thềm lục địa, không được gây cản trở bất hợp lý cho hàng hải, nghề cá, bảo tồn tài nguyên sinh vật biển và hoạt động nghiên cứu khoa học chung. Các nước khác được quyền đặt dây cáp và ống dẫn ngầm trên thềm lục địa của quốc gia ven biển.

Công ước năm 1958 về thềm lục địa đã lần đầu tiên khẳng định quốc gia ven biển có quyền chủ quyền về thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên của thềm lục địa trên cơ sở tiếp giáp với bờ biển (sự mở rộng tự nhiên của lãnh thổ đất liền ra biển) chứ không phải theo nguyên tắc hay danh nghĩa của sự chiếm hữu, biến nó trở thành một nguyên tắc của luật pháp quốc tế. Có thể thấy, theo quy định của Công ước năm 1958 về thềm lục địa, phạm vi thềm tự nhiên và “thềm lục địa pháp lý” tương đối trùng nhau, bắt đầu từ đường bờ biển (thềm tự nhiên) hay từ ranh giới ngoài của lãnh hải (thềm pháp lý), phạm vi của thềm lục địa được xác định ra đến nơi có độ sâu 200 m nước hoặc đến một độ sâu khả năng kỹ thuật cho phép khai thác được tài nguyên thiên nhiên. Các đảo (vùng đất tự nhiên có nước bao bọc xung quanh luôn luôn cao hơn mức nước triều lớn nhất) cũng có thềm lục địa như vậy. Để xác định phạm vi thềm lục địa, người ta áp dụng hai nguyên tắc về độ sâu (200 m nước) và nguyên tắc về kỹ thuật (khả năng cho phép khai thác).

Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, kỹ thuật và công nghệ biển đã nhanh chóng làm cho các quy định về xác định phạm vi thềm lục địa của Công ước năm 1958 trở nên không còn phù hợp. Người ta phát hiện ra rằng, về mặt địa chất, sự mở rộng tự nhiên của lãnh thổ đất liền ra biển không kết thúc ở mép thềm lục địa tự nhiên mà là ở bờ ngoài của rìa lục địa; quy định về độ sâu cho phép khai thác không cố định và khó xác định cụ thể; về mặt lý thuyết con người đã có thể khai thác được tài nguyên ở bất cứ độ sâu nào. Các quốc gia mới giành được độc lập muốn có tiếng nói trong việc xác định trật tự pháp lý quốc tế mới trên biển, trong đó có việc xác định một cách phù hợp và chính xác hơn phạm vi của thềm lục địa và chế độ pháp lý của nó để bảo vệ các quyền và lợi ích trên biển của mình phục vụ cho sự phát triển.

Công ước của Liên Hợp quốc về luật biển năm 1982 quy định: “thềm lục địa của một quốc gia ven biển bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển bên ngoài lãnh hải của quốc gia đó, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia đó cho đến bờ ngoài của rìa lục địa, hoặc đến cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 200 hải lý khi bờ ngoài của rìa lục địa của quốc gia đó ở khoảng cách gần hơn” (điều 76). Như vậy, thềm lục địa pháp lý của quốc gia ven biển là sự kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền, bao gồm toàn bộ rìa lục địa (thềm lục địa tự nhiên, dốc lục địa và bờ ngoài của rìa lục địa). Ở nơi nào, rìa lục địa không ra đến 200 hải lý thì thềm lục địa pháp lý được mở rộng ra đến 200 hải lý. Ở nơi rìa lục địa vượt quá 200 hải lý thì ranh giới ngoài của thềm lục địa được xác định bằng cách nối các điểm ở nơi mà bề dày trầm tích ít nhất cũng bằng 1% khoảng cách từ các điểm đó đến chân dốc lục địa; hoặc nối các điểm cách chân dốc lục địa nhiều nhất là 60 hải lý.

Tuy nhiên, dù được xác định như trên, giới hạn tối đa của thềm lục địa cũng không được vượt quá 350 hải lý tính từ đường cơ sở lãnh hải hay không được cách đường đẳng sâu 2.500 m nước một khoảng cách vượt quá 100 hải lý. Có nghĩa là, nếu quốc gia ven biển nối các điểm có bề dày trầm tích bằng 1% khoảng cách đến chân dốc lục địa, hoặc không quá 60 hải lý kể từ chân dốc lục địa mà đường nối đó lại cách đường cơ sở quá 350 hải lý, hoặc cách đường đẳng sâu 2.500 m quá 100 hải lý thì quốc gia ven biển phải thu hẹp quy định bề rộng của thềm lục địa nơi đó lại cho phù hợp (hạn chế việc quốc gia ven biển có thềm lục địa quá rộng).

Để xác định ranh giới ngoài của thềm lục địa, luật quốc tế sử dụng và kết hợp ba yếu tố: khoảng cách (200, 350, 60, 100 hải lý), yếu tố địa chất (sự kéo dài tự nhiên của lục địa, rìa lục địa, bề dày trầm tích 1%, chân dốc lục địa) và độ sâu (đường đẳng sâu 2.500 m).

Về chế độ pháp lý, tương tự như Công ước năm 1958 về thềm lục địa, Công ước luật biển năm 1982 quy định: “1 – quốc gia ven biển thực hiện các quyền thuộc chủ quyền đối với thềm lục địa về mặt thăm dò khai thác tài nguyên thiên nhiên của mình. 2 – các quyền nói ở khoản 1 có tính chất đặc quyền, nghĩa là nếu quốc gia ven biển không thăm dò thềm lục địa hay không khai thác tài nguyên thiên nhiên của thềm lục địa thì không ai có quyền tiến hành các hoạt động như vậy nếu không có sự thoả thuận rõ ràng của quốc gia ven biển. 3 – các quyền của quốc gia ven biển đối với thềm lục địa không phụ thuộc vào sự chiếm hữu thực sự hay danh nghĩa, cũng như vào bất cứ tuyên bố rõ ràng nào”.

Đồng thời, Công ước cũng quy định quốc gia ven biển có quyền tài phán (cho phép hoặc không cho phép) đối với việc xây dựng và lắp đặt các công trình, thiết bị và đảo nhân tạo, nghiên cứu khoa học biển, bảo vệ và giữ gìn môi trường biển trong vùng thềm lục địa của mình, chỉ các đảo thích hợp cho con người đến ở hay có đời sống kinh tế riêng mới được hưởng quyền có thềm lục địa riêng.

Mặt khác, Công ước cũng quy định quyền của quốc gia ven biển đối với thềm lục địa không được ảnh hưởng tới quy chế của vùng nước và vùng trời ở trên, tới quyền tự do hàng hải hay các quyền tự do khác được luật pháp quốc tế thừa nhận. Các nước ngoài có quyền được đặt dây cáp và ống dẫn ngầm trong thềm lục địa của quốc gia ven biển, khi tiến hành khai thác tài nguyên thềm lục địa nằm ngoài giới hạn 200 hải lý, quốc gia ven biển phải có nghĩa vụ đóng góp vào quỹ chung quốc tế theo một tỷ lệ nhất định.

Trong các khu vực có sự chồng lấn về thềm lục địa được xác định theo đúng các quy định của công ước, các quốc gia đối diện hay kế cận có liên quan giải quyết việc hoạch định ranh giới thềm lục địa bằng con đường thoả thuận theo đúng luật quốc tế như đã được nêu ở điều 38 trong quy chế của toà án quốc tế để đi tới một giải pháp công bằng.

Chúng ta thấy rằng, mặc dù thềm lục địa không được coi như một bộ phận của lãnh thổ quốc gia (vì nó không thuộc chủ quyền toàn vẹn và tuyệt đối của quốc gia trên biển), nhưng luật biển quốc tế đã quy định rất rõ ràng về phạm vi và quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của quốc gia ven biển đối với việc thăm dò, khai thác, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên thềm lục địa. đây là quyền riêng biệt của quốc gia ven biển. Công ước luật biển năm 1982 có hiệu lực từ ngày 16/11/1994, các quy định của công ước về thềm lục địa đã đi vào cuộc sống và được toàn thế giới chấp nhận và tôn trọng.

2. Thềm lục địa Việt Nam

Việt Nam là một quốc gia ven biển nằm trải dài theo hướng bắc nam, dọc theo bờ biển phía tây của Biển Đông nên có một vùng thềm lục địa tương ứng. Ngày 12/05/1977, Chính phủ Việt Nam đã ra tuyên bố lịch sử về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Về thềm lục địa, Tuyên bố ngày 12/05/1977 quy định như sau: “Thềm lục địa của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm đáy biển và lòng đất giữa đáy biển thuộc phần kéo dài tự nhiên của lục địa Việt Nam cho đến bờ ngoài của rìa lục địa; nơi nào bờ ngoài của rìa lục địa cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải không đến 200 hải lý thì thềm lục địa nơi ấy mở rộng ra 200 hải lý kể từ đường cơ sở đó”. Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có chủ quyền hoàn toàn về mặt thăm dò, khai thác, bảo vệ và quản lý tất cả các tài nguyên thiên nhiên ở thềm lục địa Việt Nam bao gồm tài nguyên khoáng sản, tài nguyên không sinh vật và tài nguyên sinh vật thuộc loại định cư ở thềm lục địa Việt Nam.

Tuyên bố của Việt Nam được đưa ra dựa trên các kết quả tiến bộ đạt được trong quá trình hội nghị lần thứ ba của Liên Hợp quốc về luật biển mà kết quả là việc thông qua Công ước năm 1982 về luật biển. Cùng với Tuyên bố của chính phủ ngày 12/11/1982 về hệ thống đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam, Tuyên bố ngày 12/05/1977 đã lần đầu tiên chính thức xác định thềm lục địa Việt Nam và quyền chủ quyền của Việt Nam đối với thềm lục địa rộng lớn của nước Việt Nam thống nhất. Các quy định của Việt Nam hoàn toàn phù hợp với các tiêu chuẩn và quy định của công ước năm 1982 của liên hợp quốc về luật biển. Ngày 23/6/1994, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá IX kỳ họp thứ Năm đã thông qua Nghị quyết về việc phê chuẩn Công ước của Liên Hợp quốc về luật biển năm 1982. Bằng việc chính thức cam kết tuân thủ các quy định của Công ước, Việt Nam “biểu thị quyết tâm cùng cộng đồng quốc tế xây dựng một trật tự pháp lý công bằng, khuyến khích sự phát triển và hợp tác trên biển”. Đây là cơ sở để Việt Nam tiến hành đàm phán, giải quyết việc hoạch định ranh giới thềm lục địa ở các khu vực chồng lấn có liên quan với các nước láng giềng trên tinh thần “thông qua thương lượng trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, phù hợp với luật pháp và thực tiễn quốc tế, giải quyết các vấn đề về các vùng biển và thềm lục địa của mỗi bên”.

Có thể thấy rằng, lập trường của Việt Nam về thềm lục địa là đúng đắn, không những phù hợp với các quy định của luật pháp quốc tế mà còn mang tính chất thiện chí, góp phần vào việc giải quyết một cách hoà bình các tranh chấp có thể có với các nước liên quan về thềm lục địa, giữ gìn ổn định, hoà bình và phát triển ở khu vực và trên thế giới. Cùng với việc thiết lập thềm lục địa Việt Nam, nhiều vấn đề được đặt ra cho chúng ta trong việc tiến hành nghiên cứu, thăm dò, sử dụng, khai thác, quản lý tài nguyên thiên nhiên của một vùng sâu, xa bờ trên đáy biển và lòng đất dưới đáy biển phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế của đất nước, bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên của biển, đồng thời bảo đảm tôn trọng các quyền tự do hợp pháp của các nước khác trên thềm lục địa vì lợi ích chung của cộng đồng quốc tế.

Trong thời gian qua, Việt Nam đã và đang tiến hành nhiều hoạt động nghiên cứu, thăm dò, khai thác và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên thềm lục địa Việt Nam: nghiên cứu khoa học, thăm dò và khai thác dầu khí, các loại khoáng sản khác, thành lập các cụm khoa học, kinh tế và dịch vụ trên thềm lục địa Việt Nam, đặt dây cáp và ống dẫn ngầm, trong đó có nhiều hoạt động được tiến hành với sự hợp tác của nước ngoài.

Đến nay, Việt Nam đã thông qua đàm phán giải quyết được vấn đề hoạch định ranh giới thềm lục địa (và vùng đặc quyền kinh tế) với Thái Lan (ký hiệp định năm 1997), phân định Vịnh Bắc bộ với Trung Quốc (ký hiệp định năm 2000), hoạch định ranh giới thềm lục địa với Indonesia (ký hiệp định năm 2003).

Hiện nay, Việt Nam duy trì thoả thuận thăm dò khai thác chung dầu khí trong vùng thềm lục địa chồng lấn với Malaysia; thúc đẩy đàm phán về hợp tác khai thác chung dầu khí ở vùng thềm lục địa chồng lấn của ba bên Việt Nam, Thái Lan và Malaysia. Trong khi chưa giải quyết dứt điểm được vấn đề phân định, việc duy trì các thoả thuận và đàm phán về khai thác chung các vùng biển chồng lấn là một thực tế sinh động đóng góp vào thực tiễn quốc tế về “các dàn xếp tạm thời” trên tinh thần hiểu biết và hợp tác của các nước hữu quan trên cơ sở các quy định của Công ước luật biển 1982, phù hợp với luật pháp và thực tiễn quốc tế, các biện pháp tạm thời không ảnh hưởng đến việc giải quyết vấn đề hoạch định ranh giới biển giữa các bên hữu quan.

3. Khu vực Tư chính thuộc thềm lục địa Việt Nam

Khu vực bãi ngầm Tư Chính nằm trên sự trải dài của thềm lục địa phía nam Việt Nam, cách đường cơ sở lãnh hải Việt Nam nơi gần nhất chỉ khoảng 84 hải lý, nơi xa nhất chưa đến 200 hải lý, còn thấp hơn rất nhiều khoảng cách tối đa 350 hải lý. Độ sâu khu vực này chưa đến 2.000 m, nên không cần phải tính đến tiêu chuẩn cách đường đẳng sâu 2.500 m một khoảng cách 100 hải lý như Công ước quy định. Khu vực bãi ngầm Tư Chính là các bãi ngầm, là bộ phận của đáy biển, không phải là đảo, nằm cách xa đảo gần nhất của quần đảo Trường Sa trên 50 hải lý và cách biệt quần đảo này bởi một máng sâu khoảng 2.000 m, nên không thể được coi là “phụ thuộc” vào bất cứ đảo nào của quần đảo. Hơn thế nữa, nhóm đảo Phú Quý, Hòn Hải của Việt Nam riêng nó cũng có đủ tiêu chuẩn để có vùng thềm lục địa riêng bao phủ toàn bộ khu vực Tư Chính. Theo các tiêu chuẩn về địa chất, khoảng cách và độ sâu của Công ước năm 1982 về luật biển, có thể thấy rõ khu vực này là bộ phận của thềm lục địa Việt Nam và quy chế này không hề bị phụ thuộc vào sự chiếm hữu thực sự hay danh nghĩa hay cái gọi là tuyên bố chủ quyền nếu có của bất kỳ một quốc gia nào khác.

Rõ ràng là, khu vực Tư Chính hoàn toàn không có gì liên quan lãnh thổ lục địa Trung Quốc, nó nằm cách xa lục địa Trung Quốc đến 600 hải lý và bị tách khỏi lục địa Trung Quốc bởi một máng sâu đại dương rộng lớn trong Biển Đông sâu trên 4.000 m.

Các đảo ở quần đảo Trường Sa cũng không thích hợp cho con người đến ở hay có một đời sống kinh tế riêng nên không những không thể có thềm lục địa riêng, càng không thể khoanh quần đảo tương tự như “quốc gia quần đảo” để từ đó nêu yêu sách về thềm lục địa. Điều này đã được Phán quyết lịch sử ngày 12/7/2016 trong vụ kiện Trọng tài giữa Philipine và Trung Quốc, trong đó có nội dung liên quan đến các thực thể thuộc và chính Trường Sa khẳng định.

Nhìn lại lịch sử phát triển và các quy định của luật biển quốc tế, đặc biệt về thềm lục địa, chúng ta biết rằng không hề có cơ sở nào để khẳng định toàn bộ Biển Đông là “vùng nước lịch sử” của một quốc gia, càng không có khái niệm “biển lịch sử” của bất cứ nước nào. Một sự khẳng định như vậy không những không có căn cứ pháp lý mà còn cả về phương diện lịch sử, bất chấp thực tế lịch sử của quá trình sử dụng, khai thác Biển Đông từ lâu đời của các dân tộc sống quanh Biển Đông và của các nước khác có liên quan, bất chấp sự tồn tại của trật tự pháp lý quốc tế được cộng đồng và thực tiễn đời sống quốc tế vun đắp xây dựng nên. Không ai có thể thừa nhận một yêu sách vô lý đến như vậy. Hơn nữa, Việt Nam có chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Trung Quốc không chỉ vi phạm chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo này, mà còn muốn sử dụng các quần đảo này để phục vụ yêu sách biển phi lý của mình. Điều này là không thể chấp nhận được về mặt pháp lý, lịch sử và thực tiễn.

Theo luật biển quốc tế, quyền chủ quyền của Việt Nam đối với thềm lục địa của mình, được xác định theo đúng quy định của luật pháp quốc tế, Công ước luật biển năm 1982, là rõ ràng và không phụ thuộc vào bất cứ cố gắng chiếm hữu thực sự hay danh nghĩa nào hoặc bất cứ tuyên bố nào. Sự thật hiển nhiên là khu vực các bãi ngầm Tư Chính là thuộc thềm lục địa Việt Nam. Việc thời gian qua Trung Quốc điều nhóm tàu tiến hành các hoạt động khảo sát ở khu vực này mà không có sự đồng ý của Việt Nam là vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế và quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của Việt Nam.

RELATED ARTICLES

Tin mới