Mới đây, ông Daniel Kritenbrink, Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ về Đông Á và Thái Bình Dương, đã có bài phát biểu tại Hội thảo thường niên về Biển Đông lần thứ 13 được tổ chức bởi Trung tâm nghiên cứu chiến lược và quốc tế (CSIS, Mỹ).
Theo đó, ông Kritenbrink khẳng định tuy không phải là một bên tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông, nhưng Mỹ muốn tham gia duy trì sự ổn định và hòa bình ở vùng biển này, đảm bảo các bên có tuyên bố chủ quyền phải tuân thủ luật pháp quốc tế. Đó là một phần then chốt trong chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương (Indo-Pacific) mà Mỹ đang theo đuổi.
Lý do là Biển Đông đóng vai trò quan trọng đối với hàng hải quốc tế, khi dòng chảy thương mại qua vùng biển này có giá trị lên đến 3.000 tỉ USD mỗi năm. Biển Đông cũng là nơi chiếm đến 12% sản lượng đánh bắt hải sản toàn cầu. Chính vì thế, việc duy trì hòa bình và ổn định ở Biển Đông có liên quan trực tiếp lợi ích chung của khu vực và nhiều quốc gia.
Trợ lý Ngoại trưởng Kritenbrink cũng nhấn mạnh sự ủng hộ đối với việc các quốc gia có chủ quyền ở Biển Đông thực hiện các quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các nguồn tài nguyên thiên nhiên trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các nước này, mà không bị can thiệp, đe dọa hoặc ép buộc.
3 trụ cột của Washington
Qua đó, Trợ lý Ngoại trưởng Kritenbrink nêu ra 3 trụ cột trong chính sách của Mỹ ở Biển Đông.
Thứ nhất là ngoại giao. “Cùng với các đối tác có cùng chí hướng, chúng tôi đang thúc đẩy sự tôn trọng luật pháp quốc tế và trật tự dựa trên luật lệ, tự do hàng hải và hàng không, thương mại không bị cản trở và giải quyết tranh chấp một cách hòa bình”, ông phát biểu.
Thứ hai là các chương trình xây dựng năng lực hàng hải. Ông nêu: “Chúng tôi có một số chương trình xây dựng năng lực hàng hải cho các cơ quan thực thi pháp luật hàng hải và quân đội của khu vực. Và những chương trình này cung cấp cho các quốc gia nhận thức về lĩnh vực hàng hải và khả năng tuần tra các yêu sách của họ”. Ông cho biết trong 5 năm qua, Mỹ đã cung cấp các chương trình hỗ trợ quân sự và thực thi pháp luật với tổng trị giá lên đến 1,6 tỉ USD cho các nước Đông Nam Á để xây dựng năng lực và nhận thức hàng hải.
Trụ cột thứ ba là các hoạt động của quân đội Mỹ, bao gồm các hoạt động tự do hàng hải và các hoạt động hiện diện thường xuyên, để thể hiện rằng tất cả các quốc gia đều có quyền hoạt động trong khuôn khổ luật pháp quốc tế. Qua đó, ông Kritenbrink cho biết các hoạt động tự do hàng hải (FONOPS) mà quân đội Mỹ đã và đang thực hiện chỉ là một phần trong chính sách tổng thể của nước này ở Biển Đông.
Tăng cường hợp tác, không thúc ép “chọn phe”
“Thông qua Hiệp định Hàng hải Indo-Pacific và thông qua Hiệp định Đối tác Indo-Pacific về Nhận thức lĩnh vực hàng hải (IPMDA) đều do nhóm “bộ tứ” (gồm Mỹ – Nhật Bản – Úc – Ấn Độ) hỗ trợ, chúng tôi đang giúp tăng cường tính minh bạch trong khu vực bằng cách hỗ trợ các quốc gia Đông Nam Á giám sát các khu vực hàng hải của họ và các tuyến đường biển quốc tế thông qua những vệ tinh quỹ đạo trái đất thấp xác định tàu bằng lưu lượng vô tuyến và hệ thống theo dõi tự động”, ông Kritenbrink cho biết và nhấn mạnh nỗ lực tăng cường hợp tác với các nước trong khu vực. Ông nhắc lại các thỏa thuận đạt được gần đây với Philippines và cho biết hai bên sẽ còn đẩy mạnh hợp tác.
Trợ lý Ngoại trưởng Kritenbrink cũng đánh giá cao sự hợp tác của Nhật Bản, Úc với Mỹ để phối hợp các hoạt động ở Biển Đông. Đồng thời, ông khẳng định Mỹ mong muốn tăng cường hợp tác với Ấn Độ ở Biển Đông.
Trao đổi thêm tại hội thảo trên, đề cập việc một số nước ở Đông Nam Á lo ngại việc Washington tìm cách thúc ép phải “chọn phe”, nhưng ông Kritenbrink cho biết: “Chúng tôi không buộc các quốc gia phải lựa chọn. Những gì chúng tôi đang làm là đảm bảo rằng các quốc gia có quyền lựa chọn và khả năng đưa ra quyết định của riêng họ mà không bị ép buộc”.