Những biến động chính trị nối tiếp xảy đến cũng như các xung đột thương mại tiếp tục gây nhiều khó khăn cho kinh tế toàn cầu.
“Ổn định nhưng chậm”, “Tốc độ yếu”, “Tăng trưởng khiêm tốn” là những đánh giá gần đây được đưa ra trong các báo cáo của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) về kinh tế toàn cầu.
Bức tranh ảm đạm
Nhiều nghiên cứu đặt ra lo ngại kinh tế toàn cầu đã không thể lấy lại tốc độ tăng trưởng trước đại dịch Covid-19. Điển hình, WB đã chỉ ra rằng vào năm 2024 và 2025, gần 60% các quốc gia, chiếm hơn 80% dân số toàn cầu, sẽ tăng trưởng với tốc độ thấp hơn tốc độ trung bình của các nước này trong những năm 2010.
Hiện nay, GDP toàn cầu vẫn đang tăng. Nhưng theo Reuters, động lực lớn chủ yếu đến từ kinh tế Mỹ. Dữ liệu của IMF chỉ ra kinh tế Mỹ đã nối lại quỹ đạo tăng trưởng trước đại dịch, với GDP dự kiến sẽ tăng 2,7% trong năm nay, mức khá cao so với các nền kinh tế phát triển khác dự kiến đạt trung bình chỉ 1,7%.
Trong khi đó, hầu hết các khu vực khác đang khó khăn. Thậm chí, Công ty phân tích Moody’s dự báo Úc, New Zealand và Nhật Bản có mức tăng trưởng từ 1% trở xuống. Hay kinh tế Trung Quốc và châu Âu đều đang không tăng trưởng như kỳ vọng.
Đặc biệt, động lực kinh tế quan trọng của thế giới là Trung Quốc vừa có nhiều thông tin không mấy tích cực. Ngày 15.7, Cục Thống kê Quốc gia Trung Quốc công bố dữ liệu cho thấy kinh tế nước này chỉ tăng trưởng 4,7% trong quý 2/2024, thấp hơn so với mức kỳ vọng 5,1%. Các số liệu của kinh tế Trung Quốc cho thấy nước này khó đạt mục tiêu tăng trưởng 5% trong năm nay. Nguyên nhân được cho là vì tình hình thị trường bất động sản tiếp tục khó khăn, trong khi tiêu dùng chưa chuyển biến mạnh, đồng thời các biện pháp kích thích kinh tế cũng chưa có hiệu quả cụ thể.
Năm bầu cử đầy biến động
Năm nay là năm có bầu cử quan trọng tại nhiều nước, đồng thời sự biến động chính trị được xem là nguyên nhân gây nhiều ảnh hưởng tiêu cực cho kinh tế toàn cầu.
Khi hội nghị thượng định G7 diễn ra hồi tháng 6 vừa qua tại Ý, nhiều người tự hỏi liệu nhiều nhà lãnh đạo tham dự có quay trở lại hội nghị thượng đỉnh của khối này vào năm tới hay không.
Chưa đầy một tháng sau, Thủ tướng Anh Rishi Sunak đã từ chức sau thất bại nặng nề của đảng Bảo thủ trong cuộc bầu cử. Đương kim Tổng thống Mỹ Joe Biden, đang tái tranh cử, cũng đối mặt nhiều lời kêu gọi từ bên trong đảng Dân chủ rằng ông nên rút lui. Trong khi đó, cựu Tổng thống Mỹ Donald Trump và là đối thủ tranh cử với ông Biden thì lại đang có nhiều ưu thế. Thủ tướng Nhật Bản Fumio Kishida dự kiến kết thúc nhiệm kỳ Chủ tịch đảng Dân chủ Tự do cầm quyền vào tháng 9 nhưng cũng đang đối mặt với tỷ lệ tín nhiệm thấp. Hay chưa bị thay thế nhưng Tổng thống Pháp Emmanuel Macron cũng gặp không ít khó khăn khi đảng của ông không giành nhiều phiếu bầu trong cuộc bầu cử quốc hội nước này vừa qua. Tại châu Âu, làn sóng cực hữu đang trỗi dậy tại nhiều nước dẫn đến không ít biến động.
Theo tờ Nikkei Asia, những chuyển biến chính trị đang diễn ra thể hiện sự thất vọng của người dân các nước trên đối với chính quyền đương nhiệm bởi tình hình kinh tế bất ổn.
Đáng tiếc hơn, chính sách của các lãnh đạo đang càng khiến kinh tế thêm khó khăn. Bởi các nhà lãnh đạo chịu áp lực thường hướng nội, thiên về các chính sách dân túy đặt quốc gia lên hàng đầu. Điều đó diễn ra dưới hình thức chiến tranh thuế quan, chính sách thương mại bảo hộ. Thậm chí, nhóm tự xem là các nước dân chủ như Mỹ, Nhật Bản và các nước châu Âu đang cạnh tranh với nhau để thu hút đầu tư, bao gồm cả thông qua trợ cấp cho các nhà sản xuất chất bán dẫn và các vật liệu chiến lược khác. Tất cả càng khiến cho nền kinh tế toàn cầu phân hóa sâu sắc hơn.
Thêm vào đó, căng thẳng giữa Mỹ và Trung Quốc, cũng như cuộc xung đột ở Ukraine dẫn đến tình trạng tách rời chuỗi cung ứng kinh tế toàn cầu.
Giữa bối cảnh như vậy, nếu lãnh đạo các quốc gia tiếp tục tranh thủ sự ủng hộ trong nước bằng cách tăng cường biện pháp bảo hộ, thì nền kinh tế toàn cầu lại càng gặp nhiều cản trở.
T.P