Tổng thống Nga Vladimir Putin thăm cấp nhà nước đến Việt Nam ngày 19 – 20/6/2024. Đây được coi là sự kiện mang tính biểu tượng, trong bối cảnh hai nước kỷ niệm 30 năm ngày ký kết Hiệp ước về những nguyên tắc cơ bản của quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam và Nga.
Mối tương giao bền chặt giữa hai nước có nguồn gốc từ lịch sử quan hệ giữa Liên Xô và Việt Nam trước đây. Sự hình thành nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà xuất phát từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh tìm ra ánh sáng chân lý trong các tư tưởng của lãnh tụ Nga V. Lenin. Từ ý thức hệ chung này, hai nước đã từng đứng chung một chiến tuyến, dưới ngọn cờ của Chủ nghĩa Cộng sản.
Quan hệ giữa Việt Nam và Liên Xô cũ (nay là Nga) đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển và có ảnh hưởng sâu sắc đến lịch sử và chính trị của cả hai quốc gia. Sau khi Việt Nam tuyên bố độc lập vào năm 1945, Liên Xô là một trong những quốc gia đầu tiên công nhận Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Trong suốt cuộc chiến chống Mỹ cứu nước, Liên Xô đã cung cấp một lượng lớn viện trợ quân sự và kinh tế cho Việt Nam. Sự hỗ trợ này bao gồm vũ khí, đạn dược, cố vấn và các thiết bị quân sự hiện đại. Những hỗ trợ vô giá này chính là điều kiện quan trọng để Việt Nam chiến thắng và giành lại toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất đất nước. Trong giai đoạn này, Liên Xô cũng hết lòng hỗ trợ Việt Nam trên mặt trận ngoại giao, giúp Việt Nam nhận được sự ủng hộ từ các quốc gia xã hội chủ nghĩa khác cũng như phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới.
Sau khi chiến tranh kết thúc, bước vào thời kỳ hậu chiến, Liên Xô tiếp tục hỗ trợ Việt Nam tái thiết đất nước. Nhiều công trình lớn ở Việt Nam như nhà máy, cầu đường và các dự án cơ sở hạ tầng đã được xây dựng với sự giúp đỡ của Liên Xô. Liên Xô và Việt Nam cũng đã ký nhiều hiệp định hợp tác về kinh tế, khoa học, kỹ thuật và quân sự quan trọng. Đặc biệt, Liên Xô đã hỗ trợ Việt Nam trong việc đào tạo cán bộ và cung cấp học bổng cho sinh viên Việt Nam sang học tập. Những nhân sự này đều đã trở thành lực lượng nòng cốt trong tiến trình Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới đất nước từ năm 1986.
Sau khi Liên Xô sụp đổ vào năm 1991, quan hệ giữa Việt Nam và Nga (quốc gia kế thừa chính của Liên Xô) không vì thế mà mai một, ngược lại, tiếp tục được duy trì và phát triển. Dù khi Liên Xô sụp đổ, nhiều nước Đông Âu nằm trong phạm vi ảnh hưởng của nhà nước Xô viết đã tách ra, đi theo con đường dân chủ tự do phương Tây, đối trọng với Nga, Việt Nam ngược lại, tiếp tục ký nhiều hiệp định hợp tác mới và duy trì quan hệ đối tác chiến lược với Nga. Dù nước Nga không còn do Đảng Cộng sản lãnh đạo nữa, người Việt Nam vẫn không bỏ người bạn, người anh thân thiết. Việt Nam vẫn biết ơn nhân dân Nga và nỗ lực duy trì mối tương giao thân thiết từng có giữa hai nước.
Từ khi Tổng thống Vladimir Putin lên nắm quyền ở nước Nga, mối quan hệ với Việt Nam ngày càng được củng cố. Tính cả chuyến thăm mới nhất, Tổng thống Nga V. Putin đã thăm Việt Nam 4 lần. Chuyến thăm đầu tiên vào năm 2001 đánh dấu một bước quan trọng trong việc củng cố quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Hai chuyến thăm kế tiếp vào các năm 2006 và 2013 tiếp tục thúc đẩy các mối quan hệ kinh tế và chính trị song phương, trong đó hai nước ký kết nhiều thỏa thuận hợp tác. Những chuyến thăm này đã góp phần quan trọng phát triển quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa Việt Nam và Nga trên nhiều lĩnh vực nổi bật.
Về mặt kinh tế, kim ngạch thương mại song phương giữa Nga và Việt Nam đã tăng trưởng đều đặn trong những năm gần đây. Các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang Nga bao gồm hàng dệt may, giày dép, thủy sản, cà phê và nông sản. Ngược lại, Nga xuất khẩu sang Việt Nam chủ yếu là dầu khí, phân bón, máy móc và thiết bị công nghiệp.
Về mặt đầu tư, Nga là một trong những nhà đầu tư lớn tại Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực dầu khí và năng lượng. Liên doanh Vietsovpetro giữa Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petrovietnam) và Tập đoàn Dầu khí Nga (Gazprom) là một ví dụ điển hình về hợp tác đầu tư thành công giữa hai nước. Đây là một trong những dự án hợp tác dầu khí lớn nhất và thành công nhất, hoạt động của Vietsovpetro tại mỏ dầu Bạch Hổ đã đóng góp quan trọng vào sản lượng dầu khí của Việt Nam.
Ngoài Vietsovpetro, còn có nhiều dự án hợp tác khác giữa Việt Nam và Nga trong lĩnh vực dầu khí. Nga cũng đã cung cấp nhiều công nghệ và kinh nghiệm trong lĩnh vực này cho Việt Nam. Hai nước cũng đã hợp tác chặt chẽ trong lĩnh vực đào tạo và nghiên cứu khoa học kỹ thuật dầu khí. Nhiều chuyên gia và kỹ sư dầu khí Việt Nam được đào tạo tại Nga và ngược lại. Ngoài dầu khí, các doanh nghiệp Nga cũng đầu tư vào nhiều lĩnh vực khác như sản xuất, chế biến thực phẩm, và xây dựng cơ sở hạ tầng.
Về giáo dục và đào tạo, Nga đã tiếp tục cung cấp nhiều học bổng cho sinh viên Việt Nam sang học tập và nghiên cứu tại các trường đại học và viện nghiên cứu của Nga. Điều này không chỉ giúp nâng cao trình độ chuyên môn của nguồn nhân lực Việt Nam mà còn thắt chặt mối quan hệ hợp tác giữa hai nước.
Về du lịch, Nga là một trong những thị trường du lịch quan trọng của Việt Nam. Số lượng du khách Nga đến Việt Nam ngày càng tăng, đặc biệt là đến các điểm du lịch nổi tiếng ven biển như Nha Trang, Phú Quốc và Đà Nẵng. Ngoài hợp tác kinh tế, Nga và Việt Nam cũng có mối quan hệ hợp tác mạnh mẽ trong lĩnh vực quốc phòng, đào tạo và hợp tác kỹ thuật quân sự.
Chuyến thăm lần này của Tổng thống Putin diễn ra trên nền tảng quan hệ tốt đẹp vốn có nhưng trong bối cảnh thế giới rất khác. Từ khi cuộc chiến ở Ukraine xảy ra, Mỹ và phương Tây đã áp dụng hàng chục ngàn lệnh trừng phạt Nga, tìm mọi cách làm suy yếu, cô lập với mục tiêu cuối cùng là làm sụp đổ nước Nga. Tuy vậy, Nga vẫn đang đứng vững, thậm chí cùng với nhiều quốc gia khác đang dẫn dắt khối BRICS xây dựng một thế giới đa cực hơn.
Dù có những biến chuyển phức tạp của cục diện địa chính trị thế giới, chuyến thăm của ông Putin tới Việt Nam rất khác. Nga không tới đây để tìm kiếm một đồng minh nhằm đối chọi lại với các nước khác, ngược lại coi đây như chuyến thăm một người bạn cũ, truyền thống và thân thiết. Các tuyên bố của hai phía trong chuyến thăm cũng như sự đón tiếp trọng thị của Việt Nam đều thể hiện điều này. Việt Nam đón một người bạn truyền thống và hai quốc gia không xây dựng mối quan hệ để chống lại bất kỳ bên thứ ba nào khác, ngược lại, chỉ tập trung vào những lĩnh vực hai bên cùng có lợi.
Chuyến thăm đã mở ra những không gian hợp tác rất thực chất và tiềm năng. Đặc biệt, trong lĩnh vực năng lượng hạt nhân, hai bên đã khẳng định phát triển năng lượng nguyên tử hòa bình hứa hẹn là lĩnh vực hợp tác song phương quan trọng giữa Việt Nam và Nga. Một trong các chủ đề chính trong chương trình nghị sự là dự án xây dựng Trung tâm Khoa học và Công nghệ Hạt nhân tại Việt Nam do Tập đoàn Năng lượng Nguyên tử Quốc gia Liên bang Nga (Rosatom) tiến hành, cũng như đào tạo các chuyên gia nguyên tử Việt Nam tại những trường đại học chuyên ngành của Nga. Chủ tịch nước Tô Lâm và Tổng thống Putin đã chứng kiến lễ trao đổi bản ghi nhớ về kế hoạch triển khai dự án này tại Việt Nam.
Đây là một trong 11 văn kiện mà hai bên ký kết trong chuyến thăm cấp nhà nước của Tổng thống Putin đến Việt Nam. Các văn kiện khác tập trung vào hợp tác giáo dục đại học, phòng chống dịch bệnh, hợp tác năng lượng, dầu khí… Về mặt năng lượng, ông Putin khẳng định Nga sẵn sàng thiết lập nguồn cung trực tiếp và lâu dài về năng lượng, trong đó có khí tự nhiên hóa lỏng (LNG), cho Việt Nam.
Về giáo dục đào tạo, Tổng thống Putin nhất trí với đề nghị của Chủ tịch nước Tô Lâm tăng cấp học bổng cho sinh viên Việt Nam sang học tập, nghiên cứu, nhất là trong các lĩnh vực khoa học cơ bản và văn hóa nghệ thuật. Về du lịch, hai bên cũng nhất trí tạo điều kiện hơn nữa cho du lịch thông qua tăng các chuyến bay thẳng, ký kết hiệp định về đơn giản hóa thủ tục thị thực cho công dân Việt Nam.
Hai bên cũng mong muốn thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng – an ninh, nhất là hợp tác ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống và phối hợp chặt chẽ tại các diễn đàn đa phương về quốc phòng – an ninh, đặc biệt các cơ chế do ASEAN dẫn dắt. Việt Nam sẵn sàng phát huy vai trò cầu nối giữa Nga và ASEAN, đóng góp tích cực và trách nhiệm đối với bảo đảm hòa bình, ổn định tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương và trên thế giới.
Về Biển Đông, cả Việt Nam và Nga đều tuyên bố ủng hộ bảo đảm an ninh an toàn, tự do hàng hải và hàng không, không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình phù hợp với Hiến chương Liên hợp quôc và luật pháp quốc tế, nhất là UNCLOS 1982, ủng hộ thực hiện đầy đủ DOC, sớm đàm phán tiến tới COC thực chất, hiệu quả.
Có thể khẳng định chuyến thăm lịch sử của Tổng thống Putin diễn ra trong thời gian ngắn nhưng lại có giá trị lớn, mang lại nhiều lợi ích thực tế và có ý nghĩa biểu tượng.
Tổng thống Putin tìm thấy ở Việt Nam tình hữu nghị gắn bó thuỷ chung, tìm thấy một đối tác tin cậy. Ông Putin đã phát biểu rất rõ rằng nước Nga và cá nhân ông có trách nhiệm hỗ trợ Việt Nam trên tất cả mọi lĩnh vực, một cách cơ bản và lâu dài, tạo ra hệ sinh thái hợp tác phù hợp với sự phát triển hai nước và phù hợp với đường lối phát triển của Nga. Tuyên bố chung của hai bên đã khẳng định mối quan hệ Việt – Nga là không phụ thuộc vào những biến đổi địa chính trị trên phạm vi toàn cầu. Cụ thể, tuyên bố có đoạn viết: “Việt Nam và Nga không liên minh hoặc thỏa thuận với bên thứ ba nhằm có các hành động phương hại đến độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, cũng như lợi ích cơ bản của nhau. Việc phát triển quan hệ Việt Nam – Nga không nhằm chống lại bất kỳ bên thứ ba khác”.
Chuyến thăm lần này cũng khiến Nga thấy rõ hơn quan điểm xuyên suốt của Việt Nam trong chính sách đối ngoại, là nỗ lực làm bạn, làm đối tác tin cậy của tất cả các nước, không đi với nước này chống nước khác, luôn có cách nhìn nhận khách quan về xung đột quốc tế. Nước Nga hiểu ngày càng rõ hơn tính độc lập, tự chủ rất cao của dân tộc Việt Nam, không ngả về nước nào, không bỏ rơi bạn bè trong hoàn cảnh khó khăn, nên luôn dành sự tôn trọng tối đa cho Việt Nam. Điểm này cũng được thể hiện cụ thể trong tuyên bố chung: “Nga đánh giá cao lập trường cân bằng, khách quan của Việt Nam về vấn đề Ukraine, theo đó cần giải quyết tranh chấp, bất đồng bằng các biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế và các nguyên tắc của Hiến chương LHQ, có tính đến lợi ích chính đáng của các bên liên quan, vì hòa bình, ổn định và phát triển tại khu vực và trên thế giới; hoan nghênh Việt Nam sẵn sàng tham gia các nỗ lực quốc tế có sự tham gia của các bên liên quan nhằm tìm kiếm giải pháp hòa bình, bền vững cho vấn đề Ukraine”.
Chuyến thăm cũng một lần nữa khẳng định lại quan điểm thống nhất của cả Nga và Việt Nam về việc xây dựng một trật tự quốc tế công bằng, đa phương trên cơ sở tôn trọng lợi ích của tất cả các nước nhỏ, chống lại sự áp đặt của nước lớn. Tuyên bố chung có đoạn quan trọng: “Hai bên cho rằng mọi quốc gia có quyền tự quyết định mô hình phát triển, thể chế chính trị, kinh tế và xã hội phù hợp với điều kiện đất nước và nguyện vọng của nhân dân. Việt Nam và Nga không ủng hộ can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia, việc áp đặt các biện pháp cấm vận đơn phương, áp dụng trị ngoại pháp quyền, chia rẽ về ý thức hệ mà không có cơ sở pháp lý quốc tế và không thông qua Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc”.
Tóm lại, qua nỗ lực ngoại giao khẩn trương và toàn diện để tiếp đón một cách trọng thị Tổng thống Nga Putin, Việt Nam đã thể hiện rõ giá trị của mình là một nước yêu chuộng hoà bình, mong muốn hợp tác, coi trọng các mối quan hệ truyền thống thuỷ chung. Nhân dân thủ đô đã dành sự yêu mến cho Tổng thống Putin, yêu mến nước Nga cũng như yêu mến Liên Xô trước đây. Tin tưởng rằng với nền tảng truyền thống đó, quan hệ hai nước sẽ tiếp tục bền chặt lâu dài, hướng tới hỗ trợ lẫn nhau vì một thế giới hoà bình và thịnh vượng hơn.
T.P