Wednesday, December 25, 2024
Trang chủGóc nhìn mớiVì sao TQ ra lệnh bắt giữ bất kỳ ai xâm phạm...

Vì sao TQ ra lệnh bắt giữ bất kỳ ai xâm phạm biển Đông?

Vừa qua, Asia Times đã trích dẫn tuyên bố của Trung Quốc về ý định thực thi Luật bắt giữ công dân nước ngoài đi vào vùng biển mà họ tuyên bố chủ quyền ở biển Đông. Quy định này được gọi là “Thủ tục thực thi pháp luật hành chính dành cho các cơ quan Cảnh sát Biển” có hiệu lực ngày 15/6/2024. Đáng chú ý, Trung Quốc tuyên bố chủ quyền 90% diện tích của Biển Đông. Do đó, tuyên bố này là một cách châm ngòi cho xung đột ở vùng biển này.

Tại Đối thoại An ninh Shangri-La ở Singapore tổ chức vào cuối tháng 5/2024, Tổng thống Philippines Ferdinand Marcos đã tuyên bố: “Nếu một công dân Philippines bị giết bởi một hành động cố ý, điều đó rất gần với những gì chúng tôi định nghĩa là một hành động chiến tranh. Đó có phải là lằn ranh đỏ hay không? Gần như chắc chắn”. Lằn ranh đỏ này sẽ càng trở nên “đỏ” hơn kể từ ngày 15/6, vì bất kỳ vụ bắt giữ nào được thực hiện theo luật mà Trung Quốc mới đưa ra đều có thể được thực hiện bằng súng, làm tăng nguy cơ xảy ra một vụ việc chết người.

Vấn đề nằm ở chỗ, Manila lại có Hiệp ước Phòng thủ chung với Mỹ được ký vào năm 1951. Theo đó, Mỹ có nghĩa vụ bảo vệ Philippines nếu quốc gia này bị tấn công. Hiệp ước quy định rằng, cả Hoa Kỳ và Philippines sẽ hỗ trợ lẫn nhau trong trường hợp một trong hai quốc gia bị tấn công vũ trang. Điều 4 của hiệp ước nêu rõ rằng: “Mỗi bên sẽ hành động để đáp trả lại các mối đe dọa chung, bao gồm việc sử dụng lực lượng vũ trang nếu cần thiết”. Thêm nữa, Hoa Kỳ có quyền triển khai lực lượng quân sự để bảo vệ Philippines trong trường hợp bị tấn công. Điều này có thể bao gồm việc gửi binh lính, máy bay, tàu chiến và các thiết bị quân sự khác đến Philippines để bảo vệ quốc gia này khỏi các cuộc tấn công từ bên ngoài.

Hiệp ước này cũng cho phép hai quốc gia tăng cường hợp tác quân sự thông qua các cuộc tập trận chung, chia sẻ thông tin tình báo và huấn luyện quân sự. Điều này giúp nâng cao khả năng phòng thủ của Philippines và tăng cường khả năng ứng phó nhanh chóng trong trường hợp khẩn cấp.

Trong bối cảnh tranh chấp gia tăng ở Biển Đông, Hoa Kỳ đã nhiều lần tái khẳng định cam kết bảo vệ Philippines theo hiệp ước này. Ví dụ, trong các vụ đối đầu giữa Philippines và Trung Quốc, Hoa Kỳ đã cung cấp hỗ trợ thông qua việc tuần tra hải quân và cung cấp các hệ thống phòng thủ hiện đại cho Philippines. Hàng năm, Hoa Kỳ và Philippines tổ chức các cuộc tập trận Balikatan, một phần của nỗ lực tăng cường hợp tác quân sự và nâng cao khả năng phòng thủ của Manila.

Như vậy, theo Hiệp ước Phòng thủ chung, Mỹ có quyền và nghĩa vụ hỗ trợ Philippines bằng nhiều biện pháp khác nhau, từ triển khai lực lượng quân sự đến cung cấp hỗ trợ hậu cần và vật chất. Hiệp ước này là một trong những trụ cột của quan hệ đối tác chiến lược giữa hai quốc gia, đặc biệt quan trọng trong bối cảnh căng thẳng khu vực và các mối đe dọa an ninh đang gia tăng.

Do vậy, nếu Manila buộc phải viện dẫn Hiệp ước Phòng thủ chung để được Mỹ hỗ trợ, sẽ không khó để tưởng tượng cảnh các tàu tuần duyên Trung Quốc sẽ phải nhanh chóng đối đầu với các tàu chiến Mỹ hiện đang tuần tra trong khu vực để thực thi quyền tự do hàng hải. Tổng thống Mỹ Joe Biden có thể sẽ phải phản ứng tích cực trong trường hợp đó, nếu không sẽ gây ra mối lo ngại không thể bảo vệ họ từ các đồng minh vốn có hiệp ước an ninh chính thức với Mỹ, đặc biệt là Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO). Trong trường hợp này, các đồng minh ở khu vực sẽ phải cân nhắc việc có thể trông đợi vào chiếc ô đảm bảo an ninh của Hoa Kỳ hay không, vì nếu để họ đơn lẻ đối đầu với Trung Quốc thì rõ ràng là Trung Quốc vượt trội hơn họ rất nhiều.

Hơn nữa, khi nhấn mạnh sự tập trung của Washington vào Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương vào thời điểm căng thẳng gia tăng ở Biển Đông, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Lloyd Austin đã phát biểu tại Đối thoại Shangri-La ở Singapore rằng: “Bất chấp những xung đột lịch sử này ở châu Âu và Trung Đông, Ấn Độ – Thái Bình Dương vẫn là nơi hoạt động ưu tiên của chúng tôi”. Ngược lại, Trung tướng Trung Quốc Cảnh Kiến Phong đã trả lời một cách khinh bỉ rằng: “Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của Mỹ nhằm gây chia rẽ, kích động đối đầu và làm suy yếu sự ổn định”. Do ông Austin tuyên bố tái tập trung vào Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, có vẻ như bất kỳ yêu cầu hỗ trợ quân sự nào của Philippines, đối với Philippines, sẽ được Washington nhìn nhận một cách tích cực, có thể nhận được sự ủng hộ áp đảo của lưỡng đảng từ các thành viên Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa trong Quốc hội.

Điều thú vị là, một trong những đồng minh trung thành của Washington, Vương quốc Anh, có lực lượng hải quân đáng kể được triển khai ở Biển Đông, có thể đang chuẩn bị sẵn sàng cho một tình huống như vậy. Thông báo đột ngột và bất ngờ của Thủ tướng Anh Rishi Sunak về ngày bầu cử vào ngày 4/7 ít nhất cũng thể hiện lợi ích chung của Anh với lợi ích của Mỹ nhân ngày độc lập, đi đôi với đề xuất nghĩa vụ quốc gia, bề ngoài là để chuẩn bị cho chiến tranh và rất có thể chiến trường là ở Biển Đông.

Bên cạnh những làn sóng chấn động kinh tế và tài chính toàn cầu thảm khốc có khả năng phát sinh từ bất kỳ cuộc đối đầu quân sự trực tiếp nào giữa Mỹ và Trung Quốc, đó có thể là một cuộc xung đột mà Washington đang chuẩn bị, tùy thuộc vào một yếu tố hạn chế chính. Bất kỳ cuộc đối đầu quân sự trực tiếp nào đều chỉ được kiềm chế ở vùng biển phía nam Trung Quốc mà thôi.

Tình hình phía trước đang rất đáng chú ý. Nguy cơ xung đột đang thường trực khi mà lệnh bắt giữ của Trung Quốc chính thức thực thi và có hiệu lực. Người ta đang lo ngại khi thảo luận về nguyên nhân của chiến tranh thế giới thứ nhất xảy ra vào ngày 28/6/1914 với vụ ám sát Thái tử Áo, Franz Ferdinand, tại một quốc gia ở Đông Nam Âu. Lần này, nguyên nhân có thể là cái chết của một thủy thủ Philippines ở vùng biển nhiệt đới Đông Nam Á. Câu hỏi đặt ra là, nếu Trung Quốc ra lệnh bắt giữ bất kỳ ai xâm nhập Biển Đông thì sẽ đụng chạm tới những quốc gia nào?

Thứ nhất, đó là Việt Nam, có tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, hai khu vực quan trọng tại Biển Đông. Việt Nam cũng sẽ phản đối mạnh mẽ, có thể tăng cường hiện diện quân sự và tuần tra hải quân tại các khu vực tranh chấp.

Thứ hai, Philippines có tuyên bố chủ quyền đối với một phần lớn quần đảo Trường Sa và bãi cạn Scarborough. Philippines có thể tìm kiếm sự hỗ trợ từ Hoa Kỳ theo Hiệp ước Phòng thủ chung và đệ trình các vụ kiện lên Tòa án Quốc tế như đã từng làm với phán quyết của Tòa trọng tài thường trực (PCA) vào năm 2016.

Thứ ba, Malaysia tuyên bố chủ quyền đối với một số đảo và bãi cạn tại quần đảo Trường Sa. Phản ứng của Malaysia có thể là tăng cường tuần tra hải quân và hợp tác với các quốc gia ASEAN khác để đối phó với các hành động của Trung Quốc.

Thứ tư, Brunei có tuyên bố chủ quyền đối với các vùng biển nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của mình ở Biển Đông. Brunei thường duy trì lập trường ôn hòa nhưng có thể tăng cường ngoại giao với các quốc gia ASEAN để bảo vệ lợi ích của mình.

Thứ năm, Indonesia không có tuyên bố chủ quyền đối với các đảo tranh chấp nhưng có quyền lợi trong vùng biển xung quanh quần đảo Natuna, nơi có các hoạt động khai thác dầu khí và đánh bắt cá. Indonesia đã từng đối đầu với Trung Quốc trong khu vực này và có thể tiếp tục tuần tra, bảo vệ vùng biển của mình.

Thứ sáu, Hoa Kỳ cũng không có tuyên bố chủ quyền nhưng quan tâm đến tự do hàng hải và thương mại không bị cản trở trong khu vực. Hoa Kỳ có thể tiến hành các cuộc tuần tra tự do hàng hải (FONOP) và cung cấp hỗ trợ quân sự cho các đồng minh trong khu vực, như Philippines chẳng hạn.

Thứ bảy, Úc và các quốc gia khác cũng có lợi ích trong việc duy trì an ninh và tự do hàng hải tại Biển Đông. Úc và các đồng minh có thể tham gia vào các hoạt động quân sự chung và tăng cường hiện diện trong khu vực để phản đối các hành động của Trung Quốc.

Như vậy, có thể thấy lệnh bắt giữ của Trung Quốc đối với bất kỳ ai xâm nhập Biển Đông sẽ không chỉ gây căng thẳng với các quốc gia có tuyên bố chủ quyền, mà nó còn đụng chạm đến các quốc gia quan tâm đến tự do hàng hải và an ninh khu vực. Điều này có thể dẫn đến sự leo thang của các biện pháp quân sự và ngoại giao từ nhiều quốc gia trên toàn thế giới. Rõ ràng, lệnh bắt giữ của Trung Quốc đơn phương tuyên bố là một hành động leo thang căng thẳng ở Biển Đông. Nó có thể gây đến xung đột trong khu vực vì tuyên bố chủ quyền 90% diện tích Biển Đông không có ai thừa nhận của Trung Quốc.

Nhìn xuyên suốt chiều dài của lịch sử hiện đại, Trung Quốc đã có một số cuộc xung đột liên quan đến Biển Đông, nhưng không có sự kiện nào được coi là một trận thua rõ rệt trong các cuộc đối đầu quân sự trực tiếp.

Trong những thập kỷ gần đây, Trung Quốc đã tiến hành nhiều hoạt động nhằm khẳng định chủ quyền tại Biển Đông, bao gồm xây dựng đảo nhân tạo và triển khai lực lượng quân sự. Điều này đã dẫn đến những căng thẳng đối với các quốc gia láng giềng như Việt Nam, Philippines, Malaysia hay Brunei. Các nước này, cùng với Hoa Kỳ và các quốc gia khác, đã nhiều lần phản đối hành động của Trung Quốc và tiến hành các cuộc tuần tra tự do hàng hải (FONOP) để thách thức yêu sách của Bắc Kinh.

Ngoài hai vụ đụng độ với Việt Nam tại Hoàng Sa (1974) và Gạc Ma (1988), vụ việc bãi cạn Scarborough năm 2012 là một trong những vụ đối đầu nổi tiếng giữa Trung Quốc và Philippines. Trung Quốc đã kiểm soát bãi cạn này, dù không có giao tranh quân sự quy mô lớn.

Tất nhiên, điều này không có nghĩa rằng Trung Quốc sẽ tiếp tục giành chiến thắng nếu khai hỏa ở Biển Đông. Vì tham vọng kiểm soát toàn bộ Biển Đông của Trung Quốc phải đối diện với nhiều thách thức đáng kể từ nhiều phía, bao gồm các quốc gia trong khu vực, các cường quốc toàn cầu, cũng như các vấn đề pháp lý và kinh tế. Điển hình là Việt Nam có tuyên bố chủ quyền mạnh mẽ đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Việt Nam đã tăng cường hiện diện quân sự và ngoại giao để bảo vệ các lợi ích của mình tại Biển Đông. Việt Nam đã và sẽ tiếp tục đầu tư vào nâng cao năng lực hải quân và không quân cũng như tăng cường hợp tác với các quốc gia khác như Mỹ, Nhật Bản và Ấn Độ.

Ngày 8/5, Vietnam News đã đưa ra phản hồi của mình, theo đó Việt Nam phản đối Trung Quốc triển khai trái phép tàu khảo sát ở vùng biển Việt Nam thuộc khu vực Vịnh Bắc Bộ. Việt Nam hết sức quan ngại, kiên quyết phản đối và yêu cầu Trung Quốc chấm dứt hoạt động khảo sát trái phép của tàu Hải Dương 26 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam theo quy định của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển.

Có phải ông Tập Cận Bình đến thăm Việt Nam vì ông ấy lo Việt Nam tiến gần quá so với phương Tây hay không? Chẳng phải là đôi bên đã ký nhiều thỏa thuận, mọi thứ có vẻ tốt hay không? Bây giờ, chính quyền Trung Quốc đang phá hủy mọi thứ bằng cách tạo ra một tranh chấp mới ở Vịnh Bắc Bộ, nơi cả hai bên đã có thỏa thuận biên giới và không có tranh chấp. Điều này một lần nữa cho thấy, Trung Quốc đang “nói một đằng làm một nẻo” và chính sách đối ngoại của họ đang thực sự không tạo được niềm tin đối với các đối tác. Hành động của Trung Quốc chắc chắn có thể đẩy Việt Nam tiến xa hơn về phía Tây, và đó là điều ông Tập muốn tránh ngay từ đầu.

Vì sao ông Tập lại tránh Việt Nam tiến về phía Tây?

Vì một số lý do chiến lược, địa chính trị và kinh tế quan trọng, Trung Quốc đã đầu tư mạnh mẽ vào Lào và Campuchia, biến các quốc gia này thành các đồng minh và đối tác chiến lược trong khu vực. Nếu Việt Nam mở rộng ảnh hưởng về phía Tây, điều này có thể làm giảm ảnh hưởng của Trung Quốc tại Lào và Campuchia, gây mất cân bằng quyền lực trong khu vực. Bên cạnh đó, Trung Quốc coi vùng Đông Nam Á, bao gồm cả các nước phía Tây như Lào và Campuchia, là một phần quan trọng trong chiến lược Vành đai và Con đường (BRI). Nếu Việt Nam mở rộng ảnh hưởng, điều này có thể ảnh hưởng đến các dự án cơ sở hạ tầng và thương mại của Trung Quốc trong khu vực này.

Trung Quốc muốn đảm bảo rằng, Việt Nam không thể tăng cường sức mạnh quân sự hoặc có thêm đồng minh trong khu vực. Điều này có thể làm gia tăng căng thẳng và phức tạp hơn tranh chấp Biển Đông. Một Việt Nam mạnh mẽ hơn về phía Tây có thể củng cố vị trí trong các tranh chấp biển đảo, tạo ra thêm thách thức cho Trung Quốc. Một yếu tố nữa là các tuyến đường qua Lào và Campuchia là những tuyến đường chiến lược quan trọng đối với Trung Quốc. Việt Nam tăng cường ảnh hưởng về phía Tây cũng có thể đe dọa khả năng kiểm soát các tuyến đường này của Trung Quốc, ảnh hưởng đến khả năng triển khai quân sự và vận chuyển hàng hóa trong khu vực.

Một Việt Nam mở rộng ảnh hưởng về phía Tây và phát triển thịnh vượng có thể làm phức tạp thêm nỗ lực của Trung Quốc trong việc duy trì và củng cố các mối quan hệ ngoại giao với các nước trong khu vực. Tất cả những điều này giải thích cho việc tại sao Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình không muốn Việt Nam tiến về phía Tây, vì điều này có thể làm giảm ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực, gây ra những thách thức chiến lược, an ninh, kinh tế và ngoại giao đối với Bắc Kinh. Một Việt Nam mạnh mẽ hơn và có ảnh hưởng lớn hơn trong khu vực Đông Nam Á có thể tạo ra sự cạnh tranh và thách thức đáng kể đối với các lợi ích và mục tiêu của Trung Quốc.

Thế nhưng, việc Bắc Kinh ra lệnh dùng tàu hải quân PLA đi khảo sát khu vực Vịnh Bắc Bộ là một hành động khiêu khích nghiêm trọng. Liệu điều này có thuyết phục người Việt rằng đất nước Việt Nam có thể được vẹn toàn hay không? Nghi ngờ và đề phòng tham vọng, cũng như dã tâm của Trung Quốc đã in sâu vào máu của người Việt. Điều này cho thấy, Việt Nam bảo vệ chủ quyền tới cùng. Đương nhiên, đây là sức ép không nhỏ đối với Trung Quốc. Thứ hai, là Philippines, vốn đã nhận được phán quyết có lợi từ Tòa trọng tài thường trực PCA vào năm 2016, bác bỏ các yêu sách của Trung Quốc trên Biển Đông. Philippines có thể tiếp tục sử dụng pháp lý quốc tế và tăng cường hợp tác quân sự với Mỹ theo Hiệp ước Phòng thủ chung. Thứ ba, Malaysia và Brunei đều có tuyên bố chủ quyền và quyền lợi kinh tế trong khu vực Biển Đông. Malaysia đã tăng cường tuần tra và bảo vệ các vùng biển của mình, trong khi Brunei giữ lập trường ngoại giao nhưng cũng tăng cường hợp tác với ASEAN.

Bên cạnh đó, còn có phản ứng từ các cường quốc toàn cầu như Hoa Kỳ, vốn đã duy trì sự hiện diện quân sự mạnh mẽ ở Thái Bình Dương và ủng hộ tự do hàng hải. Mỹ tiến hành các cuộc tuần tra tự do hàng hải (FONOP) và hỗ trợ quân sự cho các đồng minh trong khu vực như Philippines hay Nhật Bản.

Nhật Bản luôn coi Biển Đông là một tuyến đường biển quan trọng cho thương mại và năng lượng của mình. Nhật Bản đã tăng cường hiện diện hải quân và hợp tác với các quốc gia Đông Nam Á để đối phó với các động thái của Trung Quốc.

Tất nhiên, điều này sẽ kích hoạt một cuộc chiến tập thể và Trung Quốc cũng dễ rơi vào tình trạng bị cô lập hoàn toàn. Tham vọng kiểm soát Biển Đông của Bắc Kinh sẽ phải đối diện với một loạt thách thức từ các quốc gia trong khu vực, các cường quốc toàn cầu, các vấn đề pháp lý, kinh tế và môi trường. Những thách thức này đòi hỏi Bắc Kinh phải cân nhắc kỹ lưỡng và có chiến lược toàn diện nếu như muốn đạt được mục tiêu của mình tại Biển Đông.

T.P

RELATED ARTICLES

Tin mới