Kênh đầu tư vàng không còn hấp dẫn, thị trường trái phiếu doanh nghiệp cần thêm trợ lực, ngân hàng gặp khó khăn kép vì nợ xấu, lộ diện cổ đông lớn của các ngân hàng… là tiêu điểm ngân hàng tuần qua.
Kênh đầu tư vàng ngày càng kém hấp dẫn
Từ đầu năm đến nay, giá vàng thế giới tăng khoảng 17%, trong khi giá vàng miếng SJC chỉ tăng 7%. Với việc mua bán vàng bị siết chặt như hiện nay, kênh đầu tư vàng đang trở nên kém hấp dẫn.
“Trong nửa đầu năm nay, vàng là kênh có hiệu suất lợi nhuận cao vượt trội so với hầu hết các loại tài sản khác”, ông Shaokai Fan, Giám đốc khu vực châu Á – Thái Bình Dương (không bao gồm Trung Quốc), kiêm Giám đốc ngân hàng Trung ương toàn cầu tại Hội đồng Vàng thế giới đánh giá.
Theo chuyên gia này, nhu cầu vàng miếng và đồng tiền vàng tại Việt Nam tăng tới 30% trong quý II/2024 cho thấy, các nhà đầu tư Việt vẫn xem vàng là kênh trú ẩn an toàn nhằm đối phó với sự gia tăng của lạm phát, đồng nội tệ sụt giảm trong bối cảnh thị trường chứng khoán, bất động sản tiếp tục khó khăn.
Theo đánh giá của Hội đồng Vàng thế giới, nhu cầu vàng toàn cầu sẽ vẫn tiếp tục tăng mạnh thời gian tới, được hỗ trợ bởi lực cầu mạnh mẽ của khối ngân hàng trung ương và cầu thị trường bán lẻ tại châu Á. Trong quý II/2024, cầu vàng nội địa tại Trung Quốc tăng tới 62%, Ấn Độ tăng 46%.
Khảo sát của Hội đồng Vàng thế giới mới đây cho thấy, có tới 29 ngân hàng trung ương cho biết vẫn có nhu cầu tiếp tục mua thêm vàng. Năm ngoái, khối ngân hàng trung ương đã mua vào trên 1.000 tấn vàng, nửa đầu năm nay mua vào hơn 500 tấn. Tuy vậy, ông Shaokai Fan cho rằng, trong trường hợp nội tệ các quốc gia mất giá mạnh, có thể các ngân hàng trung ương không mua vàng nữa, mà chuyển sang tập trung bảo vệ sự ổn định đồng nội tệ. Theo đó, cầu mua vàng sẽ giảm, từ đó tác động tiêu cực tới giá vàng.
TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia kinh tế cho rằng, chưa có dấu hiệu nào cho thấy giá vàng hạ nhiệt thời gian tới.
“Dự báo của tôi là vàng có thể lên mức 2.500 USD/ounce trong năm nay và có thể lên tới 3.000 USD/ounce năm tới. Hiện tại, không thấy có yếu tố nào có thể tác động làm giảm giá vàng”, chuyên gia này nhận định.
Nguyên nhân khiến giá vàng tăng, ngoài sức nóng của chính trường Mỹ (bầu cử Tổng thống Mỹ), còn do căng thẳng địa chính trị tại Ukraine, Trung Đông, khả năng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) giảm lãi suất…
Bất chấp triển vọng lạc quan của giá vàng thế giới, kênh đầu tư vàng tại Việt Nam ngày càng giảm sức nóng, chủ yếu do các chính sách quản lý thị trường vàng gần đây của Ngân hàng Nhà nước.
Việc Ngân hàng Nhà nước bán vàng trực tiếp cho nhóm ngân hàng Big 4 và Công ty SJC để các doanh nghiệp này bán lại cho người dân đã khiến thị trường vàng trong nước hơn hai tháng qua gần như bị đóng băng bởi nguồn cung hạn chế, người dân rất khó mua vàng, kể cả vàng nhẫn. Không những thế, mới đây, TP.HCM còn thành lập tổ công tác đảm bảo an ninh thị trường vàng, siết chặt thêm quản lý hoạt động mua – bán vàng.
Chính vì vậy, dù chênh lệch giá vàng trong nước – thế giới đã kéo giảm đáng kể, song kênh đầu tư vàng ngày càng bị loại khỏi danh mục của nhiều nhà đầu tư cá nhân và các quỹ đầu tư.
Ông Nguyễn Minh Tuấn, Giám đốc điều hành, kiêm đồng sáng lập Cộng đồng Cố vấn tài chính Việt Nam, CEO AFA Capital cho biết, thời điểm hiện tại, dựa trên tính toán những tác động từ việc can thiệp của Ngân hàng Nhà nước, AFA Capital đã giảm tỷ trọng của tất cả các nhà đầu tư vào vàng.
Theo các chuyên gia, vàng không phải là sản phẩm thiết yếu, cũng không phải là hàng hóa hạn chế trao đổi, nên việc quản lý quá chặt chẽ như hiện nay là không cần thiết. Đầu tư vàng cũng là quyền lợi hợp pháp của người dân.
“Vàng không phải là sản phẩm thiết yếu hay phục vụ đời sống hằng ngày. Đơn giản, đó chỉ là sản phẩm mà người dân xem như tài sản để tích lũy, là của để dành. Không có quy định nào cấm người dân được mua vàng số lượng lớn, miễn là thực hiện đúng quy định về phòng chống rửa tiền. Việc đưa ra quá nhiều quy định thắt chặt hoạt động mua bán vàng là không hợp lý”, luật sư Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty Luật ANVI nhận xét.
Tại cuộc họp đánh giá việc điều hành chính sách tiền tệ mới đây, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Ngân hàng Nhà nước tăng cường quản lý, kiểm soát thị trường vàng, ngoại tệ một cách căn cơ, bài bản hơn.
Đẩy mạnh xử lý, nợ xấu ngân hàng vẫn khó giảm
Mặc dù các ngân hàng đã nỗ lực xử lý nợ xấu, với kỳ vọng thu hồi được các khoản nợ lâu năm, song thị trường bất động sản còn khó khăn đẩy nợ xấu tiếp tục gia tăng.
Sacombank cho biết, đã thu hồi, xử lý được 4.822 tỷ đồng nợ xấu và tài sản tồn đọng trong nửa đầu năm, song tỷ lệ nợ xấu ở mức 2,15%. Công ty Đấu giá Hợp danh Toàn Cầu Group vừa thông báo về việc tiếp tục bán đấu giá tài sản theo yêu cầu của Sacombank (mã: STB), với giá khởi điểm hơn 508 tỷ đồng.
Theo đó, tài sản bán đấu giá là lô đất có diện tích 11.221 m2 để sản xuất – kinh doanh, thời hạn sử dụng lâu dài. Tài sản gắn liền với đất gồm công trình có 3 tầng và sân thượng, diện tích xây dựng 5.644 m2 diện tích sử dụng 6.413 m2… Phiên đấu giá tài sản dự kiến diễn ra vào lúc 14 giờ ngày 30/8, tại Hội sở Sacombank.
Trước đó, Sacombank cũng đã bán đấu giá Dự án Xi Grand Court tại địa chỉ số 256 – 258 Lý Thường Kiệt, quận 10, TP.HCM, các tài sản của Công ty Địa ốc Vạn Phát, Công ty Kim Hoàn Mỹ, Công ty TNHH Cơ khí Đúc Ki Hu, Công ty cổ phần Thực phẩm Song Long, Công ty Cổ phần H.N.H.
Sacombank đã công bố kết quả kinh doanh 6 tháng đầu năm 2024, với lợi nhuận trước thuế quý II/2024 tăng 3%. Vietcap dự báo Sacombank sẽ ghi nhận 2.000 tỷ đồng từ việc bán Khu công nghiệp Phong Phú trong nửa cuối năm. Theo đó, Vietcap nhận thấy không có thay đổi đáng kể đối với dự báo lợi nhuận của Công ty cho Sacombank, dù cần thêm đánh giá chi tiết.
Vietcap kỳ vọng, mức thu nhập cao hơn từ thu hồi nợ xấu đã xử lý trong nửa cuối năm 2024 sẽ giúp cho CIR 2024 của Sacombank giảm. Chất lượng tài sản quý II/2024 của Sacombank giảm so với cùng kỳ quý trước với tỷ lệ nợ xấu đạt 2,43% (+64 điểm cơ bản) và cho vay Nhóm 5 ghi nhận mức tăng 33,9% so quý trước. Tuy nhiên, tín hiệu đáng mừng là tỷ lệ nợ Nhóm 2 của Sacombank đã giảm 15 điểm cơ bản.
Theo Vietcap, Sacombank đã gần như không cần trích lập thêm chi phí dự phòng cho Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) phần nào giúp giảm gánh nặng trích lập dự phòng trong kỳ. Trong quý II/2024, chi phí dự phòng rủi ro Sacombank đã giảm 64,6%, xuống 465 tỷ đồng. Lũy kế, chi phí dự phòng nửa đầu năm nay giảm 50,7% xuống 1.143 tỷ đồng…
Ông Lưu Trung Thái, Chủ tịch MB cho biết, về dư nợ của 4 nhóm doanh nghiệp tại ngân hàng đang được nhà đầu tư quan tâm. Cụ thể, với nhóm Trung Nam, trong năm nay, dư nợ tại MB đã giảm thêm 2.000 tỷ đồng và MB chỉ cho vay tập trung 3 dự án điện mặt trời, những dự án này đang vận hành đúng tiến độ, có giá tốt trong giai đoạn trước, dòng tiền đảm bảo trả nợ cho MB. Do đó, MB không xếp nhóm nợ xấu cho 3 dự án này của Trung Nam và 3 dự án này độc lập, nhóm dự án này đang vận hành tốt và đủ khả năng trả nợ cho MB trong thời gian tới.
Đối với nhóm Novaland, MB đã giảm thêm 1.500 tỷ đồng từ năm ngoái đến năm nay, không có tình trạng như nhà đầu tư lo lắng. MB chỉ cho vay 3 dự án đang trong tiến triển tốt. Dự án ở Novaland Phan Thiết đang có dấu hiệu khá tích cực và không có vấn đề pháp lý. Ngoài ra, là dự án ở Vũng Tàu hoàn toàn đủ giấy tờ, đang trong quá trình bán hàng.
Riêng Dự án Aqua City của Novaland, MB theo dõi thường xuyên thông tin để hoàn chỉnh thủ tục pháp lý.
Với nhóm Sungroup, MB không có vấn đề về mặt khó khăn liên quan đến cân đối tài sản đảm bảo cũng như nguồn trả nợ.
Về Vingroup, MB kiểm soát chặt chẽ, chỉ tập trung dự án có pháp lý đầy đủ và được triển khai ở sản phẩm cuối cùng. Hầu hết các dự án triển khai với Vingroup được trả nợ rất nhanh.
Kết thúc 6 tháng đầu năm 2024, lợi nhuận trước thuế riêng MB đạt 13.168 tỷ đồng, tăng 10,2% so với cùng kỳ 2023. Tỷ lệ nợ xấu toàn tập đoàn được kiểm soát ở mức 1,64%, riêng ngân hàng đạt 1,43%, vẫn tăng hơn 12 điểm % so với đầu năm nay.
Thực tế cho thấy, các ngân hàng cho hay, thu hồi nợ xấu đang gặp vô vàn khó khăn. Tại thời điểm này, các ngân hàng đang cấp tập rao bán tài sản thế chấp để xử lý, thu hồi nợ. Tài sản được rao bán không chỉ là đất nền, nhà phố, căn hộ, ô tô, máy móc, thiết bị mà còn có cả cổ phiếu, tài sản hình thành trong tương lai.
Theo Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng (Ngân hàng Nhà nước), tính riêng trong 6 tháng đầu năm 2024, toàn hệ thống xử lý được 167.300 tỷ đồng nợ xấu, tăng 45,6% so với cùng kỳ năm trước. Tuy vậy, gần một nửa trong số đó là do các tổ chức tín dụng tự xử lý bằng trích lập dự phòng rủi ro. Việc thu giữ tài sản đảm bảo, xử lý nợ xấu đang gặp nhiều khó khăn.
Báo cáo tài chính bán niên của 29 ngân hàng cho thấy, tính tới cuối tháng 6/2024, có tới 24/29 ngân hàng ghi nhận tỷ lệ nợ xấu tăng so với cuối năm 2023. Số dư nợ xấu tuyệt đối của các ngân hàng tăng hơn 20% so với cuối năm ngoái.
chứng khoán Rồng Việt (VDSC) cũng cho biết, nợ xấu tiếp tục tăng trong nửa đầu năm 2024, hoạt động cơ cấu nợ và giữ nguyên nhóm nợ vẫn mạnh mẽ. Theo ước tính của Ngân hàng Nhà nước, tỷ lệ nợ xấu nội bảng tính đến cuối tháng 5/2024 ở mức 4,94%, cao hơn mức 4,55% tại thời điểm cuối năm 2023. Trong khi đó, tỷ lệ nợ xấu gồm cả nợ tiềm ẩn và cơ cấu lại không thay đổi nhiều so với cuối năm 2023, duy trì mức 6,9%.
Xét về số tuyệt đối, VDSC ước tính nợ xấu nội bảng tăng thêm khoảng 75.900 tỷ đồng so với cuối năm 2023. Đáng chú ý, nợ cơ cấu lại thời hạn và giữ nguyên nhóm nợ theo thông tư 06/2024 và Thông tư 02/2023 tăng khá mạnh, với tổng giá trị nợ gốc và lãi đã tăng thêm 25,5% so với cuối năm 2023 lên 230.400 tỷ đồng. Đồng thời, số lượt khách hàng được cơ cấu lại thời hạn nợ và giữ nguyên nhóm nợ cũng tăng mạnh, từ 188.000 lượt lên 282.000 lượt tính đến cuối tháng 6/2024.
Trong khi nợ xấu có xu hướng gia tăng, thì thống kê từ báo cáo tài chính quý II/2024 cho thấy, tỷ lệ bao phủ nợ xấu (số dư dự phòng/số dư nợ xấu) tại phần lớn các ngân hàng đều giảm so với thời điểm cuối năm ngoái. Tính chung toàn ngành ngân hàng, tỷ lệ bao phủ nợ xấu giảm 14,2 điểm phần trăm, từ mức 98,9% cuối năm ngoái xuống 84,7% vào cuối quý II/2024. Theo số liệu thống kê, có 23/29 ngân hàng báo cáo tỷ lệ bao phủ nợ xấu giảm trong 6 tháng qua.
Chia sẻ tại cuộc họp báo kết quả hoạt động ngân hàng 6 tháng đầu năm và triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2024 của Ngân hàng Nhà nước ngày 23/7, Phó thống đốc trường trực Đào Minh Tú cho biết, nợ xấu đang có xu hướng tăng là một vấn đề cần lưu ý, mức độ tăng cũng khá cao. Tỷ lệ nợ xấu nội bảng đã lên gần 5%.
Nếu bao gồm nợ tiềm ẩn có khả năng thành nợ xấu, nợ xấu bán cho VAMC…, thì con số tỷ lệ nợ xấu khoảng 6,9%. Theo Phó thống đốc, nợ xấu là vấn đề lớn cần quan tâm, bởi đây là hệ quả của cả quá trình. Nhìn chung, đó là những khoản nợ sau 2 năm có dịch Covid-19 và năm 2023 là do yếu tố khách quan khó khăn của nền kinh tế chứ không phải sự yếu kém của ngành ngân hàng.
Theo Phó thống đốc Đào Minh Tú, Ngân hàng Nhà nước sẽ có biện pháp xử lý tích cực hơn, đảm bảo chất lượng tín dụng và kiểm soát nợ xấu, trích lập để đảm bảo an toàn ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước cũng đang ban hành Thông tư 06 ngày 18/6/2024 kéo dài thời gian thực hiện chính sách tại Thông tư 02/2023/TT-NHNN về cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn đến hết ngày 31/12/2024.
Điểm danh” cổ đông ngoại chi phối ngân hàng Việt
Bên cạnh cổ đông cá nhân và tổ chức trong nước, nhiều ngân hàng Việt có sự chi phối của cổ đông nước ngoài.
Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi quy định, ngân hàng phải công bố các cổ đông nắm từ 1% vốn cùng người có liên quan, trong đó có nhà đầu tư nước ngoài. Theo Luật sư Trương Thanh Đức (Công ty Luật ANVI), yêu cầu này là cần thiết để phòng ngừa chuyện đứng tên hộ, đầu tư núp bóng, hạn chế tình trạng sở hữu chéo, thậm chí thao túng ngân hàng.
Theo yêu cầu trên, các ngân hàng đã công khai danh sách cổ đông tổ chức sở hữu từ 1% vốn. Điều này giúp thị trường có cơ hội tiếp cận đầy đủ cơ cấu sở hữu tại các nhà băng, kể cả với cổ đông chiến lược nước ngoài.
Bên cạnh các cổ đông tổ chức trong nước, Ngân hàng OCB công bố cổ đông nước ngoài Aozora Bank, Ltd nắm 15% vốn điều lệ; tiếp theo là Portal Global Limited và Pyn Elite Fund (Non-Ucits) lần lượt sở hữu 3,03% và 2,42% vốn. Như vậy, tổng sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư ngoại đang chiếm 20,45% vốn của OCB.
Tại Ngân hàng MB, đến ngày 15/7, Pyn Elite Fund nắm giữ 1,63% vốn của ngân hàng này. Trong khi đó, dẫn đầu về sở hữu của nhóm cổ đông tổ chức tại VPBank là SMBC- cổ đông chiến lược nắm 15% vốn.
Được biết, VPBank đạt được thỏa thuận phát hành riêng lẻ cho đối tác chiến lược SMBC vào cuối tháng 3/2023. Theo đó, Ngân hàng chào bán hơn 1,19 tỷ cổ phiếu cho SMBC, với tổng giá trị hơn 35.900 tỷ đồng. Ngoài ra, hai quỹ đầu tư nước ngoài là Composite Capital Master Fund và Vietnam Enterprise Investments lần lượt nắm tương ứng 2,73% và 1,28% vốn của VPBank.
Ba tổ chức ngoại tại Ngân hàng ACB là Smallcap World Fund, Inc., Boardwalk South Limited và VOF PE Holding 5 Limited, với tỷ lệ sở hữu là hơn 6% vốn điều lệ. Tại HDBank, Baillie Gifford Pacific Fund sở hữu 2,19% vốn; Sovico Holdings nắm tỷ lệ 14,27% vốn và là cổ đông duy nhất nắm trên 5% cổ phần của nhà băng này.
Hiện VIB có 18 cổ đông nắm hơn 72% vốn điều lệ. Trong đó, nhà đầu tư chiến lược nước ngoài Commonwealth Bank là cổ đông lớn nhất sở hữu hơn 19,8% vốn.
Tại Ngân hàng ABBank, trong 3 cổ đông tổ chức, cổ đông chiến lược Maybank sở hữu 16,39% vốn điều lệ, là cổ đông có tỷ lệ sở hữu cao nhất. Trước đó, ngày 22/5/2024, Tổ chức tài chính quốc tế (IFC) đã khớp lệnh bán hơn 84 triệu cổ phiếu ABB, tương đương 8,2% tỷ lệ sở hữu tại ABBank theo lộ trình thống nhất trước đó.
Tại VietinBank, MUFG Bank nắm 19,73% vốn, Quỹ GIC giữ 1,67% vốn và cổ đông chiến lược Mizuho Bank nắm giữ 15% vốn. Vietcombank vừa rút nội dung “thông qua phương án phát hành cổ phiếu riêng lẻ để tăng vốn điều lệ” khỏi chương trình Đại hội đồng cổ đông bất thường năm 2024 vào ngày 19/8 tới.
Trước đó, Vietcombank kỳ vọng sẽ hoàn thành phương án tăng vốn 6,5% từ phát hành riêng lẻ trong năm 2025. Trong báo cáo phân tích cập nhật đầu tháng 7/2024, Công ty ACBS cho biết, Vietcombank đang trong quá trình chuẩn bị phát hành riêng lẻ tỷ lệ 6,5% vốn cho cổ đông chiến lược Mizuho cũng như một số cổ đông khác.
Hiện nhiều ngân hàng Việt chưa có sự chi phối của cổ đông ngoại, mà phần lớn là cổ đông cá nhân và tổ chức trong nước.
Tại MSB, VNPT là cổ đông chiến lược sở hữu 6,05% vốn và theo lộ trình đã phê duyệt, đến hết năm 2025, sẽ thoái vốn tại MSB… Tương tự, LPBank công bố có một cổ đông sở hữu từ 1% vốn điều lệ trở lên là VNPost – nắm 167,2 triệu cổ phiếu LPB, tương ứng 6,54% vốn điều lệ của ngân hàng này.
MSB đã công bố danh sách 8 cổ đông sở hữu từ 1% vốn điều lệ trở lên. Những cổ đông này sở hữu tổng cộng 32,17% vốn điều lệ của Ngân hàng. Trong đó, VNPT là cổ đông lớn nhất nắm tỷ lệ 6,05% vốn. Ngoài ra, dù không có tên trong báo cáo, nhưng Nhà nước cũng đang sở hữu 6,53% vốn điều lệ tại ngân hàng này.
KienlongBank cũng chưa có cổ đông nước ngoài. Theo công bố, 21 cổ đông, bao gồm 16 cổ đông cá nhân và 5 cổ đông tổ chức, đang nắm hơn 70% vốn điều lệ của KienlongBank. Trong số 16 cá nhân tổ chức, bà Trần Thị Thu Hằng nắm giữ 17,2 triệu cổ phiếu, tương đương tỷ lệ 4,72% vốn.
Bên cạnh đó, một nhóm cổ đông là cá nhân, tổ chức có mối liên hệ với nhóm Đồng Tâm của ông Võ Quốc Thắng, Chủ tịch Công ty cổ phần Đồng Tâm, nguyên cố vấn của KienlongBank. Tổng số cổ phần mà nhóm này sở hữu chiếm trên 27% vốn điều lệ của Ngân hàng.
Theo danh sách mới cập nhật, 2 cổ đông là tổ chức nắm giữ cổ phần trên 1% tại Eximbank là Tập đoàn Gelex sở hữu 10% và Công ty cổ phần chứng khoán VIX với 3,58%. Trước đó, đầu năm 2023, cổ đông chiến lược SMBC thoái 15% vốn tại Eximbank.
Tại BVBank, các cổ đông sở hữu cổ phần nhiều nhất là bà Nguyễn Thanh Phượng, Phó chủ tịch HĐQT nắm 4,56%; ông Ngô Quang Trung, thành viên HĐQT, kiêm CEO nắm hơn 3,12%; ông Lê Anh Tài, Chủ tịch HĐQT sở hữu 2,86%; ông Nguyễn Nhất Nam, thành viên HĐQT giữ gần 1%, người có liên quan nắm hơn 1%…
Tương tự, đến thời điểm này, Nam A Bank, Saigonbank chưa có cổ đông ngoại. Các nhà băng này cho biết, đang trong quá trình tìm kiếm các cổ đông chiến lược nước ngoài phù hợp với chiến lược tăng trưởng của ngân hàng.
Lộ diện cổ đông lớn ở các ngân hàng
Nhiều ngân hàng đã công bố danh sách cổ đông nắm giữ từ 1% cổ phần vốn điều lệ trở lên, theo Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi, có hiệu lực từ ngày 1/7/2024.
Theo danh sách được cập nhật vào ngày 30/7, cá nhân nắm giữ vốn nhiều nhất tại ACB là ông Trần Hùng Huy, Chủ tịch HĐQT, sở hữu hơn 153 triệu cổ phiếu, tương đương tỷ lệ 3,427%. Người có liên quan đến ông Huy sở hữu 367 triệu cổ phiếu, tương đương 8,218%. Cá nhân thứ hai là bà Đặng Thu Thủy, thành viên HĐQT ACB là mẹ ông Huy, đang nắm 53,3 triệu cổ phiếu ACB, tỷ lệ 1,194%. Tỷ lệ sở hữu của người có liên quan đến bà Thủy là 10,457%.
Ngoài ra, ba tổ chức nước ngoài là Smallcap World Fund, Inc., Boardwalk South Limited và VOF PE Holding 5 Limited nắm giữ lần lượt hơn 112 triệu cổ phiếu, 82,3 triệu cổ phiếu và 76,6 triệu cổ phiếu ACB, với tổng tỷ lệ sở hữu hơn 6% vốn điều lệ tại ACB.
Trong khi đó, Eximbank vừa cập nhật danh sách cổ đông sở hữu từ 1% vốn điều lệ trở lên tại ngày 6/8. Trong đó, CTCP Tập đoàn Gelex nắm 85,5 triệu cổ phiếu, tương đương 4,9% vốn; CTCP Chứng khoán VIX sở hữu 62,3 triệu cổ phiếu, tương đương 3,58% vốn; bà Lương Thị Cẩm Tú, Phó chủ tịch HĐQT Eximbank nắm 19,5 triệu cổ phiếu, tương đương 1,12% vốn cổ; bà Lê Thị Mai Loan, cựu thành viên HĐQT sở hữu 17,9 triệu cổ phiếu, tương đương 1,03% vốn.
Đồng thời, tại ĐHĐCĐ thường niên năm 2024, ông Nguyễn Hồ Nam được bổ nhiệm vị trí Phó Chủ tịch HĐQT Eximbank. Ngay sau khi được bổ nhiệm tại Eximbank, ông Nam đã xin từ nhiệm vị trí Chủ tịch HĐQT Bamboo Capital và làm Chủ tịch Hội đồng chiến lược Ngân hàng.
Việc ông Nguyễn Hồ Nam làm Phó Chủ tịch HĐQT Eximbank với tỷ lệ gần như tuyệt đối (99%) tại đại hội, thể hiện được sự tín nhiệm tuyệt đối của các cổ đông lớn, phát tín hiệu thời kỳ hoà hợp của các cổ đông Eximbank, tạo tiền đề để ngân hàng trở lại đường đua xanh.
MSB công bố danh sách 8 cổ đông sở hữu từ 1% vốn điều lệ trở lên. Những cổ đông này sở hữu tổng cộng 32,17% vốn điều lệ của ngân hàng. Trong đó, Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông đang là cổ đông lớn nhất, sở hữu gần 121 triệu cổ phiếu MSB, tương đương 6,05% vốn…
VPBank có 17 cổ đông sở hữu trên 1%, nắm gần 5,1 tỷ cổ phiếu, tương đương 64,2% vốn điều lệ ngân hàng này.
Trong đó, ông Ngô Chí Dũng, Chủ tịch HĐQT sở hữu 328,5 triệu cổ phiếu, tương đương 4,14% vốn. Ngoài ra, những người có liên quan với ông Dũng nắm giữ 2,34 tỷ cổ phiếu, chiếm 29,5% vốn điều lệ, nâng tỷ lệ sở hữu của tổng nhóm có liên quan đến ông Dũng lên 33,64% vốn.
Tại BVBank, có 9 cổ đông cá nhân sở hữu từ 1% vốn điều lệ trở lên tính đến ngày 30/7. Trong đó, người sở hữu cổ phần nhiều nhất là bà Nguyễn Thanh Phượng, Phó chủ tịch BVBank, với 22,87 triệu cổ phiếu, tỷ lệ gần 4,56%. Tiếp theo đó, ông Ngô Quang Trung, thành viên HĐQT, kiêm Tổng giám đốc BVBank nắm giữ 15,68 triệu cổ phiếu, tỷ lệ hơn 3,12%; ông Lê Anh Tài, Chủ tịch HĐQT sở hữu 2,86%; ông Nguyễn Nhất Nam, thành viên HĐQT sở hữu gần 1% và người có liên quan nắm hơn 1%…
Tại HDBank, CTCP Sovico, Baillie Gifford Pacific Fund và Pyn Elite Fund (Non-Ucits) là cổ đông sở hữu trên 1% vốn cổ phần. Tính đến ngày 28/6, Baillie Gifford Pacific Fund nắm giữ 64,2 triệu cổ phiếu HDB, tương ứng 2,19% vốn điều lệ; CTCP Sovico (Sovico Holdings) sở hữu 417,7 triệu cổ phiếu, tương đương 14,27% vốn và là cổ đông duy nhất nắm trên 5% cổ phần của nhà băng này.
Còn bà Nguyễn Thị Phương Thảo, Phó chủ tịch HĐQT sở hữu 109 triệu cổ phiếu, tỷ lệ 3,72%; ông Nguyễn Hữu Đặng, Phó chủ tịch HĐQT sở hữu 80,4 triệu cổ phiếu, tỷ lệ 2,75%; ông Đào Duy Tường, Trưởng ban Ban Kiểm soát sở hữu 79,8 triệu cổ phiếu, tỷ lệ 2,73%; ông Phạm Văn Đẩu, Giám đốc tài chính sở hữu 126,3 triệu cổ phiếu, tỷ lệ 4,31%…
Trong số những ngân hàng đã công bố những cổ đông sở hữu từ 1% vốn điều lệ trở lên theo quy định, có nhóm ngân hàng thương mại nhà nước. Tính đến nay, đã có 2 “ông lớn” trong nhóm này là Vietcombank và VietinBank công bố.
Cụ thể, tại Vietcombank, tính đến ngày 20/7, chỉ có một tổ chức là Quỹ đầu tư Chính phủ Singapore (GIC) với hơn 93,3 triệu cổ phiếu, tương đương 1,67% vốn điều lệ. Danh sách này không công bố tỷ lệ sở hữu của Nhà nước.
Trong khi đó, VietinBank công bố có 3 cổ đông tổ chức sở hữu từ 1% vốn điều lệ, gồm MUFG Bank, Công đoàn VietinBank, Công ty TNHH Bảo hiểm Nhân thọ Prudential Việt Nam. Tổng cổ phần các cổ đông này nắm giữ hơn 1.178 triệu cổ phiếu, tương đương hơn 21,95% vốn điều lệ của ngân hàng này. Trong đó, Công ty TNHH Bảo hiểm Nhân thọ Prudential Việt Nam nắm 57,6 triệu cổ phiếu CTG, tương ứng 1,07% vốn điều lệ; Công đoàn VietinBank nắm giữ hơn 61,6 triệu cổ phiếu CTG, tỷ lệ sở hữu vốn điều lệ là 1,15% và MUFG Bank đang là tổ chức nắm giữ nhiều cổ phiếu CTG nhất, với hơn 1 tỷ cổ phiếu, tương đương 19,73%.
Theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi), từ ngày 1/7/2024 – thời điểm Luật có hiệu lực, cổ đông sở hữu từ 1% vốn điều lệ trở lên của tổ chức tín dụng phải cung cấp cho tổ chức tín dụng các thông tin của cá nhân và người liên quan. Đáng chú ý, Luật giảm trần tỷ lệ sở hữu ngân hàng nhằm giảm tình trạng sở hữu chéo.
Cụ thể, giới hạn trần sở hữu tại một ngân hàng đối với cá nhân không đổi ở mức 5%, song một tổ chức không được sở hữu quá 10% vốn điều lệ của tổ chức tín dụng, bao gồm cả sở hữu gián tiếp, thay vì 15% như trước. Cổ đông và người có liên quan cũng không sở hữu quá 15% vốn, thay vì 20% như trước. Cổ đông lớn của một tổ chức tín dụng và người có liên quan của cổ đông đó không được sở hữu cổ phần từ 5% vốn điều lệ trở lên của một tổ chức tín dụng khác.
Sửa loạt quy định để vực dậy thị trường trái phiếu doanh nghiệp
Các chuyên gia cho rằng, quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) Việt Nam quá nhỏ bé, chưa xứng tiềm năng. Đại diện Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và Bộ Tài chính cho biết đang nghiên cứu sửa đổi loạt quy định liên quan lĩnh vực này.
Phát biểu tại Hội thảo “Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp hướng tới chuyên nghiệp, bền vững” sáng 16/8, ông Hoàng Văn Thu, Phó chủ tịch Ủy ban chứng khoán Nhà nước cho hay, trong 7 tháng đầu năm có 183 đợt phát hành thành công, tổng giá trị huy động 174.000 tỷ đồng, tăng 2,78 lần so với năm 2023. Đối với hoạt động phát hành trái phiếu ra công chúng, trong 7 tháng, UBCK đã cấp phép và phát hành trị giá gần 30.000 tỷ đồng (chưa bao gồm số liệu trái phiếu của CTCK và công ty quản lý quỹ).
Tuy vậy, quy mô thị trường TPDN vẫn còn nhỏ bé (gần 10% GDP) và còn xa mục tiêu đề ra. Theo mục tiêu phát triển TTTP được Chính phủ phê duyệt, quy mô thị trường đến 2025 đạt 20% GDP và đến 2030 đạt 30% GDP.
Theo Vụ Phát triển thị trường chứng khoán, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, hiện thị trường TPDN hiện vẫn còn nhiều hạn chế.
Cụ thể, một số doanh nghiệp phát hành TPDN có tình hình tài chính không ổn định, thiếu minh bạch về thông tin tài chính. Điều này dẫn đến nguy cơ không trả được nợ khi đến hạn, gây thiệt hại cho các nhà đầu tư.
Các vụ việc doanh nghiệp vỡ nợ hoặc chậm trả lãi đã làm giảm niềm tin của nhà đầu tư vào thị trường. Mặc dù đã có những dấu hiệu cải thiện nhưng sự tăng trưởng của thị trường vẫn còn chậm, nhiều doanh nghiệp vẫn gặp khó khăn về dòng tiền và sản xuất kinh doanh nên tình hình chậm trả nợ gốc, lãi trái phiếu vẫn còn xảy ra.
Trong năm 2023, theo báo cáo của Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội, có 139 doanh nghiệp chậm thanh toán gốc, lãi TPDN với tổng giá trị khoảng 83.600 nghìn tỷ đồng.
Năng lực của các tổ chức trung gian còn hạn chế. Chất lượng cung cấp dịch vụ của các tổ chức cung cấp dịch vụ trên thị trường còn chưa cao: như có hiện tượng lách quy định nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp, không cung cấp đầy đủ thông tin về TPDN, mời chào nhà đầu tư chuyển tiền gửi tiết kiệm sang mua TPDN, sản phẩm tiết kiệm linh hoạt…
Mặc dù, cơ quan chức năng đã tăng cường công tác quản lý, giám sát trên thị trường, xử lý nghiêm minh những sai phạm như vụ việc Ngân hàng SCB và Vạn Thịnh Phát, Tập đoàn Tân Hoàng Minh, tuy nhiên thị trường vẫn chưa thật sự hồi phục, thanh khoản chưa cải thiện nhiều, niềm tin nhà đầu tư vẫn còn suy giảm.
Thiếu các tổ chức trung gian, độc lập đủ uy tín tham gia vào quá trình xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp, định giá trái phiếu doanh nghiệp. Bên cạnh đó, việc một số TPDN thanh khoản thấp, điều này gây khó khăn cho nhà đầu tư khi cần bán trái phiếu trước hạn để thu hồi vốn.
Tính thanh khoản thấp làm giảm tính hấp dẫn của TPDN, đặc biệt đối với các nhà đầu tư tổ chức. Mặc dù thị trường trái phiếu doanh nghiệp ở Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể, nhưng vẫn tồn tại nhiều vấn đề cần được giải quyết để đảm bảo sự phát triển bền vững và ổn định.
Việc cải thiện tính minh bạch, tăng cường quản lý và giám sát, cũng như nâng cao chất lượng tổ chức phát hành là những giải pháp cần thiết để khắc phục các tồn tại này. Chỉ khi đó, thị trường TPDN mới thực sự trở thành kênh huy động vốn hiệu quả và đáng tin cậy cho các doanh nghiệp Việt Nam, là kênh đầu tư hấp dẫn cho công chúng đầu tư.
Hiện quy mô thị trường TPDN Việt Nam hiện nay còn quá nhỏ (mới đạt gần 10% GDP) nếu so sánh với ASEAN (khoảng 26-54% GDP), Hàn Quốc (97% GDP)…
Mặc dù thị trường TPDN đang dần phục hồi, song theo TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế trưởng BIDV, vẫn còn rất nhiều rủi ro.
Thứ nhất, rủi ro TPDN đáo hạn và quá hạn thanh toán còn cao. Theo FiinRatings, hiện 21% trái phiếu phát hành chậm nghĩa vụ trả nợ, chưa kể trái phiếu đã được gia hạn.
Thứ hai, rủi ro lan truyền và liên thông giữa thị trường ngân hàng – chứng khoán – bất động sản vẫn luôn tiềm ẩn.
Thứ ba, dựa chủ yếu vào TPDN phát hành riêng lẻ trong khi TPDN phát hành ra công chúng còn chiếm tỷ lệ nhỏ. Theo Hiệp hội thị trường trái phiếu, tỷ lệ phát hành riêng lẻ trên thị trường trong 7 tháng đầu năm 2024 vào khoảng 92%.
Thứ tư, cơ cấu nhà đầu tư TPDN còn nhiều bất cập. Ngân hàng thương mại đang là bên mua chính trong các đợt phát hành TPDN, trong khi các nhà đầu tư tổ chức khác như công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí, quỹ đầu tư, công ty chứng khoán… còn chiếm tỷ trọng nhỏ.
Thứ năm, nhận thức và mức độ hiểu biết của nhà đầu tư chứng khoán nói chung và TPDN nói riêng còn hạn chế, dẫn đến dễ xảy ra tâm lý đám đông, đầu tư chỉ quan tâm đến lãi suất, bất chấp rủi ro…
Thứ sáu, hạ tầng công nghệ thông tin, dữ liệu còn bất cập, một số thông tin về quy mô phát hành, cơ cấu nhà đầu tư… chưa được cập nhật đầy đủ, kịp thời; hệ thống giao dịch TPDN tập trung mới đưa vào vận hành được hơn 1 năm…, cũng có ảnh hưởng đến công tác quản lý và tính thanh khoản của thị trường.
Thứ bảy, việc áp dụng Nghị định 65/2022/NĐ-CP với những quy định cao hơn, liệu có còn là rào cản đối với phát hành TPDN riêng lẻ hay không là chưa rõ do chưa có rà soát, khảo sát hay đánh giá cụ thể kể từ khi quay lại áp dụng từ đầu năm 2024 đến nay…
Để thị trường TPDN trở thành kênh đầu tư hấp dẫn và là kênh dẫn vốn cho doanh nghiệp, ông Tô Trần Hòa, Phó Vụ trưởng Vụ Phát triển thị trường chứng khoán, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cho rằng, cần tập trung thúc đẩy việc chào bán trái phiếu doanh nghiệp ra công chúng gắn với niêm yết.
Đồng thời, khuyến khích các doanh nghiệp phát hành đa dạng các loại trái phiếu phù hợp với nhu cầu huy động vốn; phát triển các sản phẩm TPDN cho mục tiêu thực hiện Dự án, dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP) nhằm thúc đẩy huy động vốn cho phát triển cơ sở hạ tầng; vận hành thị trường thứ cấp TPDN riêng lẻ cho các nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp nhằm tăng tính thanh khoản, tính minh bạch của thị trường.
Các chuyên gia cũng cho rằng, cần tăng cường vai trò và trách nhiệm của các tổ chức xếp hạng tín nhiệm trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp, tiến tới yêu cầu doanh nghiệp phát hành trái phiếu phải được xếp hạng tín nhiệm, hình thành thói quen và thông lệ sử dụng kết quả xếp hạng tín nhiệm khi phát hành, đầu tư trái phiếu doanh nghiệp.
Quan trọng nhất, phải tiếp tục hoàn thiện khung khổ pháp lý liên quan như các quy định về phát hành trái phiếu riêng lẻ theo hướng khuyến khích doanh nghiệp phát hành TPDN riêng lẻ chỉ cho nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp là tổ chức, rà soát quy trình, thủ tục và pháp lý để khuyến khích các doanh nghiệp chào bán trái phiếu ra công chúng.
Ông Hoàng Văn Thu cho biết, sắp tới, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước sẽ trình sửa Nghị định 155/2020/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Chứng khoán. Mới đây, Quốc hội đã cho phép và Bộ Tài chính cũng đang nghiên cứu xây dựng dự án một luật sửa 7 luật thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tài chính, trong đó có Luật Chứng khoán.
Theo đó, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước sẽ nghiên cứu và thiết kế để phát triển thị trường TPDN một cách chuyên nghiệp, bền vững, tăng cường các nội dung về xếp hạng tín nhiệm trong các nghiệp vụ phát hành; sự hiện diện của đơn vị tư vấn trong quá trình lập hồ sơ, đánh giá hồ sơ; tăng cường tính tự chịu trách nhiệm của chủ thể tham gia như đơn vị tư vấn, xếp hạng tín nhiệm.
Nhìn từ góc độ chuyên gia, TS. Cấn Văn lực cho rằng, ngoài nâng cao chất lượng hệ thống các tổ chức xếp hạng tín nhiệm, thị trường thứ cấp tập trung, cơ sở thông tin – dữ liệu về thị trường trái phiếu, về nhà đầu tư, tài sản đảm bảo… thì phải nâng cao chất lượng nhà đầu tư.
Bên cạnh đó, bản thân doanh nghiệp, tổ chức phát hành cũng cần đa dạng hóa nguồn vốn; quan tâm quản lý rủi ro; chủ động xếp hạng tín nhiệm, nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp, thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính, tăng cường công khai minh bạch, quan tâm tăng trưởng xanh, tài chính xanh.
Zombie trái phiếu”: Cần nghiên cứu cơ chế cho doanh nghiệp phá sản
Theo ước tính của VIS Ratings, khoảng 27% trái phiếu đáo hạn có nguy cơ không trả nợ đúng hạn trong 12 tháng tới (trong đó bao gồm 65% trái phiếu đã chậm trả trước đó). Trong khi đó, áp lực đáo hạn trái phiếu doanh nghiệp giai đoạn 2024-2025 vẫn còn rất lớn.
Trước tình hình này, có ý kiến lo ngại, khả năng vỡ nợ trái phiếu sẽ xảy ra, đặc biệt là trái phiếu bất động sản. Dù vậy, TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế cho rằng, doanh nghiệp bất động sản đã vượt qua giai đoạn khó khăn nhất (tháng 6 – 8/2023) nhờ Nghị định 08/2023/NĐ-CP cho phép đàm phán giãn, hoãn nợ.
Về cơ bản, 60% doanh nghiệp bất động sản đã gia hạn được 2 năm (điểm rơi tháng 6/2025), doanh nghiệp chủ động mua lại trái phiếu theo điều kiện phát hành và bắt đầu phát hành trở lại giảm áp lực vốn. Ngoài ra, thị trường bất động sản ấm lên, doanh nghiệp sẵn sàng bán tài sản để trích ra một phần trả nợ.
“Hiện tượng vỡ nợ ít khả năng xảy ra vì khó khăn nhất đã qua, có nhiều giải pháp đồng bộ để giải quyết. Thực tế thì doanh nghiệp bất động sản không cần chiết khấu sản phẩm 40 – 50% như thời gian trước, chiết khấu khoảng 10% đã bán được rồi”, TS. Cấn Văn Lực nhận định.
Liên quan đến vấn đề này, ông Nguyễn Quang Thuân, Tổng Giám đốc FiinRatings cho rằng, nợ quá hạn là vấn đề lớn nhất của thị trường TPDN giai đoạn 2024-2025.
“Việc hỗ trợ không nên chỉ tập trung vào giải cứu trái phiếu mà quan trọng nhất là tháo gỡ pháp lý bất động sản. Khi tháo gỡ được vấn đề này thì việc xử lý nợ quá hạn rất dễ”, ông Thuân kiến nghị.
Mặc dù vậy, trên thực tế, một số doanh nghiệp hiện nay tồn tại như những zombie, không có khả năng trả nợ trái phiếu. Theo TS. Lê Xuân Nghĩa, chuyên gia kinh tế, giải pháp khả thi nhất với các trường hợp này là cho phép phá sản.
“Đối với vấn đề xử lý các vụ việc không trả nợ gốc/lãi trái phiếu đúng hạn làm mất niềm tin nhà đầu tư, tôi cho rằng giải pháp khắc phục cơ bản nhất là phá sản. Doanh nghiệp nào không thể trả được nợ, tình trạng quá tệ nên cho phá sản và nhà đầu tư cần học cách chấp nhận rủi ro, thiệt hại”, TS Lê Xuân Nghĩa nêu đề xuất.
Dù vậy, TS. Cấn Văn Lực cho rằng, ở Việt Nam, doanh nghiệp bình thường phá sản đã khó, doanh nghiệp có nợ trái phiếu phá sản càng khó hơn.
Theo Hiệp hội thị trường trái phiếu, mấu chốt nhất để phát triển thị trường trái phiếu phải là sự minh bạch. Có nhiều biện pháp, công cụ để duy trì tính minh bạch, đó là từ nội tại của doanh nghiệp, là kiểm toán, thanh tra/kiểm tra của cơ quan quản lý, hay chế độ báo cáo thông tin bắt buộc. Xếp hạng tín nhiệm cũng góp phần giúp tính minh bạch trở nên cao hơn, thị trường phát triển lành mạnh, thực chất hơn.
Liên quan tới vấn đề phá sản, ông Đỗ Ngọc Quỳnh, Tổng Thư ký Hiệp hội Thị trường trái phiếu Việt Nam cho rằng, việc hoàn thiện và nâng cao hiệu lực Luật Phá sản là rất quan trọng. Mọi sự phát triển dựa trên quy luật đào thải, nếu không sẽ như “cơ thể ăn không tiêu sẽ có rất nhiều bệnh”.
“Nghị định 08 cho phép đàm phán gia hạn nhưng các nhà đầu tư cá nhân không có năng lực đánh giá về trái phiếu phát hành nên khi doanh nghiệp đặt ra yêu cầu gia hạn, nhà đầu tư cá nhân rơi vào tình trạng hoảng. Nhiều nhà đầu tư cá nhân buộc phải chấp nhận đàm phán gia hạn. Mặt khác, hiện chưa có câu trả lời cho câu hỏi “nếu không chấp nhận thì phải kiện doanh nghiệp kiểu gì?”. Cần nhìn nhận, nếu cứ gia hạn với những doanh nghiệp không thể phục hồi thì tình hình có thể còn tệ hơn nữa”, ông Quỳnh thẳng thắn.
T.P