Với mục tiêu thống trị Biển Đông – vùng biển có ý nghĩa địa chiến lược quan trọng – Trung Quốc từ lâu đã áp dụng chiến thuật “chia để trị” đối với các quốc gia ven Biển Đông, dựa trên một cách tiếp cận rõ ràng và cụ thể đối với từng quốc gia. Hiện Bắc Kinh đang tìm cách chia rẽ Manila với Hà Nội (hai nước có tranh chấp lớn nhất với Trung Quốc ở Biển Đông) bằng cách chĩa mũi nhọn hung hăng vào Philippines và nhẹ tay hơn trong hành xử với Việt Nam.
Giới quan sát nhận định trong khi tranh chấp trên biển kéo dài giữa Trung Quốc và Philippines đã leo thang đáng kể trong những tháng gần đây với với hàng loạt vụ va chạm tàu trên nhiều khu vực ở Biển Đông, thì chưa có ghi nhận nào về các hành vi quá hung hãn với Việt Nam.
Chỉ trong hai tuần cuối tháng 8/2024, đã có ít nhất ba lần tàu Trung Quốc va chạm với tàu Philippines và cả hai bên đều cáo buộc bên kia cố tình đâm vào tàu mình. Ngày 19/8/2024, một số tàu của Trung Quốc và Philippines đã va chạm gần bãi cạn Sa Bin ở quần đảo Trường Sa, điểm nóng mới sau Bãi Cỏ Mây và Bãi cạn Scarborough. Lần va chạm thứ hai cũng tại bãi Sa Bin đã diễn ra hôm 25/8, với việc cả hai bên một lần nữa đổ lỗi cho nhau. Đến ngày 31/8, hải cảnh Trung Quốc tố tàu Philippines cố tình kéo mỏ neo đụng tàu Trung Quốc, trong khi tuần duyên Philippines tố tàu Trung Quốc cố tình đâm vào tàu của mình. Theo các hình ảnh được công bố, tàu tuần tra lớn của Philippines, mang tên BRP Teresa Magbanua, bị đâm ba lần, gây hư hỏng cấu trúc.
Nhà phân tích địa chính trị Don McLain Gill từ trường Đại học De La Salle ở Manila nhận định Trung Quốc đang cố gắng đẩy Philippines ra khỏi khu vực, nhằm lặp lại những gì đã làm vào năm 2012 để chiếm đóng bất hợp pháp bãi cạn Scarborough. Đồng thời, ông Don McLain Gill cho rằng Trung Quốc đang tìm cách gia tăng áp lực trên không, lấy dẫn chứng máy bay nước này trong tháng Tám đã thực hiện những tác vụ nguy hiểm và thả pháo sáng trên đường bay của một máy bay tuần tra thuộc Không quân Philippines. Theo ông Don McLain Gill, “Trung Quốc sẵn sàng chấp nhận rủi ro hơn là chấp nhận việc trở thành một người hàng xóm tốt và có trách nhiệm”.
Philippines thể hiện rõ lập trường quyết đoán và minh bạch khi công khai trên truyền thông các video quay lại những gì xảy ra trên biển. Tiến sĩ Ian Storey, học giả của Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (ISEAS – Yusof Ishak Institute) tại Singapore, cho rằng chính sách của Philippines có hai mục tiêu: (i) tạo sự ủng hộ quốc tế đối với việc bảo vệ quyền chủ quyền của Manila; (ii) khiến người dân Philippines nhận thức được sự hung hăng của Bắc Kinh trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của họ. Theo ông Ian Storey, dù chính sách này cả ở hiện tại và tương lai đều không ngăn được Bắc Kinh sử dụng chiến thuật vùng xám (hành động gây căng thẳng nhưng dưới mức chiến tranh), nhưng mục đích là tập hợp dư luận trong nước và quốc tế ủng hộ Philippines.
Kết quả là Philippines thực sự đã nhận được một số lợi ích và sự ủng hộ của quốc tế, bao gồm mới đây là 500 triệu USD tài trợ quân sự từ Mỹ, radar và tàu từ Nhật Bản, và thiết bị phát hiện tàu tối tân từ Canada. Ngược lại, Manila đã phải chấp nhận rất nhiều rủi ro. Đại tá về hưu Raymond M. Powell từ Đại học Stanford, Mỹ, người quan sát các vấn đề trên Biển Đông lâu năm, nhận định: “Rõ ràng là Philippines đang chịu nhiều phản ứng tiêu cực từ Trung Quốc hơn so với Việt Nam, nhưng thực tế là chiến lược này đã phát huy hiệu quả khá tốt trong việc xây dựng năng lực cho Philippines để chống lại Trung Quốc trong tương lai”.
Việt Nam cũng đã từng vạch trần sự hung hăng của người hàng xóm Trung Quốc, chẳng hạn như khi Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 tại vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam hồi năm 2014. Vào thời điểm đó, chính quyền Hà Nội đã phản ứng quyết liệt và mời báo chí quốc tế, bao gồm các hãng truyền thông của Mỹ, Anh, Nhật Bản…, đến thực địa để đưa tin về sự kiện. Một làn sóng phẫn nộ “bài Hoa” đã bùng nổ trong dư luận Việt Nam dẫn đến các cuộc biểu tìnhthậm chí mất kiểm soát.
Tuy nhiên, thời gian gần đây Việt Nam có cách tiếp cận mềm mỏng hơn, ít công khai hoá các hành động xâm lấn hung hăng của Bắc Kinh. Dù phản ứng kiềm chế, nhưng về phía Việt Nam, thỉnh thoảng người phát Bộ Ngoại giao vẫn yêu cầu Trung Quốc chấm dứt khảo sát trái phép hoặc sử dụng tàu xâm lấn sâu vào vùng biển Việt Nam. Phía Trung Quốc không ngưng hoạt động của họ nhưng cũng không đẩy cao, và phía Việt Nam cũng cố gắng hết sức kiềm chế, không đưa vấn đề ra cộng đồng quốc tế để tránh làm vấn đề nóng lên.
Giới chuyên gia nhận định rõ ràng có cách tiếp cận khác nhau giữa Hà Nội và Manila trên hồ sơ Biển Đông. Mặc dù chưa thể nói được chiến lược của bên nào hiệu quả hơn, nhưng ít nhất Việt Nam đang dễ thở hơn với Trung Quốc, trong khi Philippines đang nghẹt thở với những cuộc rượt đuổi trên biển hằng ngày. Chuyên gia Raymond M. Powell từ Đại học Stanford, Mỹ đánh giá rõ ràng cách tiếp cận của Việt Nam đã có hiệu quả trong hoàn cảnh này, giúp họ có thể tiến hành công tác bồi đắp đảo một cách thầm lặng, không bị can thiệp nhiều.
Nhà phân tích Derek Grossman thuộc viện nghiên cứu Rand của Mỹ thì nhận định cả hai cách tiếp cận đối phó của Việt Nam và Philippines đều thất bại, vì câu trả lời nằm trong bản chất hiện nay của giới cầm quyền ở Bắc Kinh. Ông Derek Grossman cho rằng dưới thời các nhà lãnh đạo trước đây như Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào, Trung Quốc đã hoàn toàn tin vào câu thần chú của chính quyền George W. Bush rằng Trung Quốc phải hành động như một “bên liên quan có trách nhiệm” trong cộng đồng quốc tế. Các quan chức Trung Quốc khi đó cũng tích cực thúc đẩy câu chuyện “trỗi dậy hòa bình” của họ để xóa tan mọi quan niệm cho rằng Bắc Kinh tìm cách gây xung đột với các nước láng giềng hoặc Mỹ.
Ông Derek Grossman nhấn mạnh: “Tuy nhiên, nhà lãnh đạo hiện tại Tập Cận Bình lại là một người khác. Trung Quốc dưới thời ông Tập, bắt đầu từ năm 2012, đã trở nên độc đoán hơn và nghi ngờ phương Tây. Họ cũng ít quan tâm đến danh tiếng quốc tế của mình và coi thường luật pháp và chuẩn mực ứng xử quốc tế nếu điều đó phục vụ cho lợi ích của Bắc Kinh”. Nhà phân tích này cho rằng Hà Nội và Manila nên có những chiến lược thực chất và hữu hiệu hơn: Philippines nên tính đến việc kích hoạt hiệp định hỗ tương với Mỹ. Còn Việt Nam cũng có thể tiến tới tập trận với Mỹ hoặc phối hợp chặt chẽ hơn với Tuần duyên Mỹ tại Biển Đông.
Dù có những phương pháp tiếp cận khác nhau và cũng có các yêu sách chồng chéo trên Biên Đông, nhưng theo các chuyên gia, cả Philippines và Việt Nam đều nhận ra mục tiêu cuối cùng của Trung Quốc là khống chế, thống trị Biển Đông, Bắc Kinh ngày càng gia tăng các hành động hung hăng ở Biển Đông, gây tổn hại đến lợi ích của cả hai nước Đông Nam Á. Tuỳ vào từng thời điểm, có lúc Trung Quốc chĩa mũi nhọn gây hấn vào Việt Nam, có lúc chĩa mũi nhọn vào Philippines và luôn tìm cách phân hoá, chia rẽ hai nước trên vấn đề Biển Đông. Hiện Bắc Kinh tập trung các hành động hung hăng nhằm vào Philippines và có phần nương nhẹ với Việt Nam. Đây chỉ là thủ thuật của Bắc Kinh nhằm che đậy thủ đoạn thâm độc phân hoá hai nước. Tuy nhiên, nhiều động thái của cả Manila và Hà Nội gần đây cho thấy hai nước đang tăng cường hợp tác và phối hợp trên vùng biển chiến lược này.
Trong những chuyến thăm của các lãnh đạo cấp cao hai nước (Tổng thống Ferdinand Romualdez Philippines Marcos thăm Việt Nam tháng 1/2024; Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam thăm Philippines đầu tháng 9/2024) hai bên đều thảo luận và ký kết các văn bản về hợp tác trên biển và hợp tác quốc phòng. Hai bên còn có các chuyến thăm và giao lưu giữa lực lượng hải quân và tuần duyên, kể cả giao lưu giữa các đơn vị đóng quân trên quần đảo Trường Sa. Đáng chú ý, lần đầu tiên tuần duyên Philippines và cảnh sát biển Việt Nam đã tập trân diễn tập chung ở Biển Đông.
Hà Nội và Manila cũng đưa ra những tính hiệu tích cực về đàm phán song phương giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông. Khi Philippines đệ trình hồ sơ ranh giới ngoài thềm lục địa mở rộng phía vùng biển Tây Palawan lên Ủỷ ban Ranh giới thềm lục địa Liên hợp quốc tháng 6/2024, Việt Nam lên tiếng tôn trọng quyền của Philippines theo UNCLOS và tỏ ý sẵn sàng đàm phán phân định vùng biển chồng lấn ở giữa Biển Đông; khi Việt Nam đệ trình hồ sơ ranh giới ngoài thềm lục địa mở rộng khu vực giữa Biển Đông tháng 7/2024, Philippines cũng có hành động tương tự, nhấn mạnh sẵn sàng đàm phán với Việt Nam dựa trên căn cứ của UNCLOS. Trong khi đó, Trung Quốc mạnh mẽ phản đối cả hồ sơ của Philippines lẫn Việt Nam. Trung Quốc luôn phản ứng tiêu cực với bất kỳ dấu hiệu hợp tác nào giữa các bên yêu sách ở Đông Nam Á nên họ phản đối hợp tác giữa Philippines và Việt Nam là điều dễ hiểu. Giới chuyên gia nhận định việc Hà Nội và Manila đều tìm cách giải quyết các tranh chấp của mình theo luật pháp quốc tế, điều mà Bắc Kinh không tuân thủ, chứng tỏ rằng Hà Nội và Manila có thể làm điều gì đó trong dài hạn.
Nhà phân tích Powell từ Đại học Stanford cho rằng đó là bước đi thông minh của chính quyền Hà Nội và Manila bởi lẽ các cuộc đàm phán về quy tắc ứng xử trong ASEAN không đi đến đâu cả, và Trung Quốc sử dụng các cuộc đàm phán đó để cố gắng kéo dài tranh chấp, từ đó tiếp tục củng cố năng lực và đạt được những gì họ muốn. Ông Powell nhấn mạnh rằng Hà Nội thường tiến hành rất thận trọng trong việc xây dựng các mối quan hệ như thế này, nhưng cho rằng sự hợp tác vẫn sẽ tiếp diễn. Ông giải thích: “Việt Nam là một quốc gia rất bảo thủ về mặt chính sách đối ngoại và không có xu hướng thực hiện các hành động kịch tính. Vì vậy, chúng ta có thể kỳ vọng rằng sự hợp tác sẽ tiếp tục một cách có phương pháp và chậm rãi”.
Theo nhà nghiên cứu Don McLain Gill, tham vọng của Trung Quốc trong việc mở rộng yêu sách, cùng với các kế hoạch hạ tầng rộng lớn ở Đông Dương, đã dấy lên những mối quan ngại về an ninh của Việt Nam, khiến Hà Nội tăng cường hợp tác nhằm đối phó với sự thống trị ngày càng tăng của Trung Quốc. Ông Don McLain Gill nhận xét, dù có những tranh chấp trên biển, nhưng “quan trọng là cả Manila và Hà Nội đều nhận ra rằng cả hai đều không có động thái bành trướng, và việc hợp tác hướng tới một mục tiêu chung có vẻ như là điều hợp lý”.
Chuyên gia Don McLain Gill cho rằng Trung Quốc đã cố gắng tạo ra sự chia rẽ giữa Philippines và Việt Nam, chẳng hạn như thực hiện các chiến dịch thông tin nhằm bôi xấu hình ảnh Việt Nam trong mắt Philippines nhưng không hiệu quả, và Manila vẫn tôn trọng và đánh giá cao mối quan hệ với Hà Nội. Ông Gill nêu ví dụ: “Năm 2019, khi tàu tuần tra của Trung Quốc đâm vào một tàu gỗ đánh cá nhỏ của Philippines khiến các ngư dân Philippines bị rơi xuống biển, chính lực lượng tuần tra trên biển Việt Nam đã cứu những ngư dân Philippines. Điều này đã tạo ra nhận thức với Manila rằng nếu cần hợp tác với một nước láng giềng, thì không ai tốt hơn Việt Nam. Chuyên gia này cũng hi vọng đà hợp tác giữa Manila và Hà Nội sẽ tiếp tục, làm cho Trung Quốc khó khăn hơn trong việc gây chia rẽ hai nước.
Ông Don McLain Gill nhận định: “Dù Việt Nam không mặn mà với việc đưa các cường quốc ngoài khu vực vào vấn đề Biển Đông, tôi nghĩ rằng Việt Nam sẵn sàng hợp tác với một nước láng giềng và quốc gia có yêu sách ở Biển Đông, đó là Philippines. Điều này ít gây tranh cãi hơn với Hà Nội và cũng phù hợp với cách tiếp cận tập trung vào Đông Nam Á của Việt Nam”. Tóm lại, do cả Hà Nội và Manila cùng có chung lợi ích là đôi phó với các hành vi hung hăng, cưỡng ép, bắt nạt trên Biển Đông, ngăn chặn sự bành chướng của Bắc Kinh nên hai bên có sự hợp tác phối hợp với nhau là lẽ đương nhiên. Thậm chí, có ý kiến cho rằng do cùng ở trong một hoàn cảnh chịu sự o ép, bắt nạt của Trung Quốc nên Việt Nam và Philippines trở thành “đồng minh tự nhiên”. Do vậy, dù dùng bất cứ thủ đoạn nào Bắc Kinh cũng không thể chia rẽ Hà Nội với Manila, ngược lại Bắc Kinh càng hung hăng gây sự thì lại càng khiến Hà Nội và Manila xích lại gần nhau hơn bởi họ đều nhận thức rõ Trung Quốc là mối đe doạ chung của cả khu vực.