Sự hy sinh của các cán bộ, chiến sĩ ở Gạc Ma năm 1988 và các nỗ lực quên mình của quân dân cả nước đã làm nên một Việt Nam hôm nay, sẽ vững tin vung búa Chủ tịch điều khiển cuộc họp các quốc gia thành viên Công ước LHQ về Luật Biển vào tháng 6/2025.

GS. TS, Đại sứ Nguyễn Hồng Thao, người Việt Nam hai lần là thành viên Uỷ ban Luật pháp quốc tế của Liên Hợp Quốc (hiện đang đảm nhận nhiệm kỳ 2023-2027). Ông là nhà ngoại giao và chuyên gia pháp lý kỳ cựu của Việt Nam. Ông từng tham gia các đoàn đàm phán quan trọng về vấn đề biên giới với Trung Quốc, Lào, Campuchia. Đại sứ Nguyễn Hồng Thao từng là chiến sĩ Lữ đoàn 125 Hải quân.
Hằng năm vào ngày 14/3, con tim lại đau nhói khi nhớ đến sự hy sinh của các chiến sĩ Lữ đoàn tàu vận tải quân sự Trường Sa 125 HQ, lữ đoàn đặc công nước 126, các lữ đoàn công binh hải quân 83, 131 và các đơn vị khác đã tham dự chiến dịch CQ88 và làm nên Vòng tròn bất tử giữ vững đảo quê hương.
Sự nằm lại của các anh dưới dòng nước lạnh buốt của Trường Sa không vô ích. Nó đã góp phần định hình Tổ quốc Việt Nam – quốc gia ba phần biển một phần đất; góp phần thúc đẩy Việt Nam gia nhập và trở thành một thành viên đóng góp tích cực trong sử dụng Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) 1982 để giải quyết hoà bình các tranh chấp biển.
Cuối tháng 2/2025, tin vui từ New York, Việt Nam được nhóm châu Á – Thái Bình Dương tại Liên Hợp Quốc nhất trí đề cử vào vị trí Chủ tịch Hội nghị lần thứ 35 các quốc gia thành viên Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (SPLOS) diễn ra từ ngày 23-27/6/2025 và sẽ được Hội nghị SPLOS chính thức thông qua trước thềm Hội nghị…
Bảo vệ các quyền và lợi ích trên biển
Từ Gạc Ma đến cương vị Chủ tịch SPLOS, trải qua bao hy sinh, bền bỉ, phấn đấu, giữ vững độc lập tự chủ và làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, Việt Nam ngày càng nhận được sự tín nhiệm cao và ghi nhận của cộng đồng quốc tế đối với những nỗ lực thực thi, duy trì và phát triển những giá trị phổ quát của UNCLOS, văn kiện pháp lý hiệu quả nhất trong giải quyết các tranh chấp biển quốc tế trên thế giới cũng như tại Biển Đông.
Vào lúc tình hình thế giới biến động hiện nay, chúng ta càng thấm thía đường lối đối ngoại và an ninh quốc phòng vào thời điểm sóng gió đó ở Biển Đông đã góp phần đưa Việt Nam đến cơ đồ ngày nay. Các cán bộ chiến sĩ tham gia CQ 88 đã chấp hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh không mắc mưu nổ súng trước để bị gây hấn, song sẵn sàng đáp trả khi cần thiết; bình tĩnh chủ động, quả cảm, giữ biển đảo quê hương với tổn thất ít nhất và vẫn mở con đường đàm phán ngoại giao, làm cơ sở cho các tuyên bố ranh giới các vùng biển sau này.
Sau khi giữ được chỗ đứng trên 21 đảo, đá, bãi ở Trường Sa, Việt Nam đứng trước lựa chọn xác định phạm vi quần đảo và cơ sở pháp lý quốc tế để tiếp tục đấu tranh ngoại giao bảo vệ các quyền và lợi ích trên biển. Vào cuối năm 1988, các cán bộ pháp lý ngoại giao và quốc phòng Việt Nam đứng trước thử thách tuyên bố sáp nhập các bãi cạn DK1 vào quần đảo Trường Sa hay vùng thềm lục địa mở rộng từ đất liền. Tình thế trên Biển Đông và sự hy sinh của các chiến sĩ Gạc Ma đã thúc đẩy Việt Nam vượt qua những đắn đo để lựa chọn ủng hộ phê chuẩn Công ước Luật biển năm 1982 vào thời điểm còn chưa biết khi nào Công ước sẽ có hiệu lực.
UNCLOS đã cho phép các quốc gia ven biển tiến ra biển một cách hợp pháp và Việt Nam là nước đầu tiên trong khu vực Đông Nam Á ra Tuyên bố của Chính phủ CHXHCN Việt Nam ngày 12/5/1977 về thiết lập vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa theo tinh thần của Dự thảo Công ước.
Tuyên bố này có thể được coi là tuyên ngôn biển của đất nước. Với Tuyên bố này và việc phê chuẩn UNCLOS ngày 23/6/1994 trước khi Công ước có hiệu lực, Việt Nam đã trở thành một quốc gia có vùng biển rộng gấp 3 lần diện tích đất liền. Đất nước không chỉ giới hạn trong hình dạng hình chữ S của đất liền như mô tả của những cuốn sách địa lý lỗi thời mà đã trở thành một quốc gia hướng ra biển. Thời đại Hồ Chí Minh là thời đại không chỉ giữ vững biên cương ông cha để lại mà đã tạo ra một Việt Nam – quốc gia biển với các đường ranh giới được tuyên bố đầy đủ như hôm nay.
Hoàn thành tuyên bố hệ thống đường cơ sở
Tháng 2/2025, Việt Nam đã hoàn thành tuyên bố hệ thống đường cơ sở của mình từ điểm số 0 trên ranh giới vùng nước lịch sử Việt Nam – Campuchia tới điểm A24 (Điểm số 1 – Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam – Trung Quốc). Hệ thống đường cơ sở Việt Nam áp dụng cả hai phương pháp đường cơ sở thẳng ven bờ lục địa và đường cơ sở thông thường tại đảo Bạch Long Vĩ như quy định của UNCLOS.
Việc áp dụng này mở đường cho hoàn thiện hệ thống đường cơ sở tại các thực thể thuộc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong tương lai. Nhờ hệ thống đường cơ sở, Việt Nam có điều kiện xác định rõ ranh giới các vùng biển lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, góp phần quản lý các vùng biển tốt hơn, hiệu quả hơn.
Việt Nam cũng là một trong những quốc gia ở Biển Đông hoàn thành đệ trình ranh giới ngoài thềm lục địa. Việt Nam đã cùng Malaysia đệ trình hồ sơ chung về ranh giới ngoài thềm lục địa ở Biển Đông lên Uỷ ban ranh giới thềm lục địa CLCS vào ngày 7/5/2009 và hồ sơ riêng về ranh giới ngoài thềm lục địa phía Bắc Biển Đông ngày 6/5/2009. Hồ sơ thứ ba của Việt Nam về ranh giới ngoài thềm lục địa ở khu vực miền Trung được nộp ngày 17/7/2004.
Chúng ta là quốc gia đi đầu trong áp dụng UNCLOS để giải quyết các tranh chấp biển khu vực. Thực tiễn giải quyết các tranh chấp trên biển của Việt Nam làm phong phú thêm, chứng minh thêm tính đúng đắn của các quy định của Công ước, cũng như góp phần giải thích và làm sáng tỏ thêm các quy định của Công ước.
Việt Nam đã áp dụng sáng tạo nguyên tắc công bằng trong phân định biển. Trong quá trình phân định biển, Việt Nam là quốc gia đầu tiên ký kết với Indonesia hai đường ranh giới riêng biệt cho vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa tại vùng biển đối diện của hai quốc gia có khoảng cách nhỏ hơn 400 hải lý.
Việt Nam cũng là nước đi đầu về số lượng áp dụng các dàn xếp tạm thời trong khi đàm phán phân định cuối cùng, phù hợp với quy định của điều 74 và 83 của Công ước. Hợp đồng khai thác chung Petrovietnam và Petronas (Malaysia) tại vùng biển xác định trong Vịnh Thái Lan năm 1995 là một trong những hình mẫu thành công nhất về hợp tác khai thác chung dầu khí ở các vùng biển chồng lấn trên thế giới.
Hợp tác khai thác chung không chỉ trong lĩnh vực dầu khí mà cả trong lĩnh vực nghề cá với Hiệp định hợp tác nghề cá giữa Việt Nam và Trung Quốc trong Vịnh Bắc Bộ năm 2004, có thời hạn 12 năm, được gia hạn thêm 3 năm nếu hai bên không có ý kiến khác. Hiệp định này đã chấm dứt hiệu lực vào năm 2020 sau khi đã gia hạn thêm 1 năm nữa.
Một hình thức khác của hợp tác phát triển chung là Hiệp ước vùng nước lịch sử chung Việt Nam-Campuchia năm 1982.
Quyết định sáp nhập khu vực Bãi Tư Chính và DK1 vào thềm lục địa mở rộng từ lục địa năm 1988 và trình hồ sơ ranh giới thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý Việt Nam và Malaysia năm 2009 là cơ sở cho các tuyên bố sau này của Việt Nam về các thực thể ở Trường Sa chỉ nên có lãnh hải 12 hải lý và không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng.
Áp dụng mọi biện pháp giải quyết hòa bình các tranh chấp biển ở Biển Đông
Bên cạnh vấn đề phân định biển, Việt Nam cũng tích cực trong các hoạt động thúc đẩy áp dụng mọi biện pháp giải quyết hòa bình các tranh chấp biển ở Biển Đông với các nước láng giềng trong quá trình xây dựng và thực thi Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và quá trình đàm phán Bộ quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC).
Điều này đã tạo nền tảng cho sự ổn định lâu dài và kiềm chế các hoạt động làm phức tạp tình hình khu vực. Việt Nam là một trong những tác giả của sáng kiến thành lập Nhóm các nước bạn bè của Công ước Luật biển 1982.
Việt Nam cũng là nước đi đầu khi ban hành Luật các vùng biển năm 2012, Pháp lệnh cảnh sát biển năm 1998 và Luật cảnh sát biển 2018 cũng như hàng loạt các văn bản pháp lý tạo khung pháp lý toàn diện cho việc quản lý và sử dụng biển phù hợp với UNCLOS.
Việt Nam, quốc gia ven biển, luôn trung thành với các quy định của Công ước trong giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quản lý biển, hợp tác biển, bảo vệ môi trường biển, cũng như giải quyết các tranh chấp biển. Thực tế của Việt Nam đã góp phần chứng minh Công ước là công cụ pháp lý không thể thiếu cho các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam trong cuộc đấu tranh vì một trật tự pháp lý biển công bằng và phát triển bền vững.
Sự hy sinh của các cán bộ và chiến sĩ ở Gạc Ma năm 1988 và các nỗ lực quên mình của quân dân cả nước đã làm nên một Việt Nam hôm nay, sẽ vững tin vung búa Chủ tịch điều khiển cuộc họp của thế giới vào tháng 6/2025, chung tay giúp các quốc gia thiết lập được trật tự pháp lý toàn diện, công bằng, hòa bình trên biển.
T.P