Vì sao lệnh ngừng bắn vẫn chưa thực hiện được ở dải Gaza? Thương vong vẫn xảy ra. Người dân nơi đây vẫn sống trong cảnh đói khổ, bệnh tật, đặc biệt là trẻ em? Đó là những câu hỏi nhức nhối.

Phát biểu hôm 19/4, Thủ tướng Israel B. Netanyahu tuyên bố: “Không có lựa chọn nào khác” ngoài việc tiếp tục chiến dịch tấn công ở Gaza và sẽ không c hấm dứt chiến tranh trước khi loại hoàn toàn Hamas và giải thoát các con tin.
Trước đó, vòng đàm phán ngày 14/4 tại Cairo giữa các bên liên quan, bao gồm đại diện của Hamas, Israel, Ai Cập, Qatar và Mỹ, đã không đạt được bước đột phá nào, do nhiều nguyên nhân phức tạp. Một số nguyên nhân chính có thể kể đến:
Trước hết là các bên bất đồng về lệnh ngừng bắn lâu dài. Hamas yêu cầu một lệnh ngừng bắn vĩnh viễn, yêu cầu Israel rút quân hoàn toàn khỏi Dải Gaza. Đáp lại, Israel chỉ chấp nhận lệnh ngừng bắn tạm thời và vẫn khăng khăng tiếp tục chiến dịch quân sự để “loại bỏ hoàn toàn Hamas”.
Trong lúc đó, các tranh cãi về số lượng và danh tính tù nhân được thả vẫn khiến cho tình hình thêm rối. Hamas yêu cầu Israel phóng thích hàng nghìn tù nhân Palestine, trong đó có một số nhân vật quan trọng, bị Israel xem là “có máu trên tay”. Phía Israel phản đối điều này.
Muốn đi đến thống nhất thì phải có lòng tin, nhưng sau nhiều lần đàm phán đều thất bại, hoặc chỉ đạt được thỏa thuận ngắn hạn. Sự thiếu lòng tin lẫn nhau vẫn là rào cản lớn trong việc tiến tới một giải pháp bền vững.
Thế là đã rõ sự bùng nhùng dẫn đến thất bại trong đàm phán. Nếu không có sự thay đổi linh hoạt hoặc nhượng bộ từ ít nhất một phía, các vòng đàm phán tới đây vẫn sẽ chỉ là những hứa hẹn suông.
Có một vấn đề đặt ra, liệu “trung gian hòa giải” là Ai Cập có mắc “sai lầm” gì không?
Chúng ta đều biết, vai trò của Ai Cập trong các cuộc đàm phán hòa giải là vô cùng quan trọng. Ai Cập từ lâu đã là một bên trung gian đáng tin cậy giữa Israel và các nhóm vũ trang Palestine, đặc biệt là Hamas. Thế nhưng, vòng đàm phán vừa qua đã không đạt kết quả. Cố nhiên không phải vì thế mà buộc tội rằng Ai Cập đã sai lầm. Ở đây có thể có một số hạn chế hoặc khó khăn mà Cairô đã gặp phải.
Khó khăn đầu tiên là khó giữ được vai trò trung lập tuyệt đối. Dù đóng vai trò trung gian, nhưng họ có lợi ích an ninh riêng, đặc biệt liên quan đến vùng biên giới với Dải Gaza (như khu vực Rafah). Điều này khiến một số bên, đặc biệt là Hamas, có thể hoài nghi về mức độ trung lập của Ai Cập.
Thứ đến là vai trò, ảnh hưởng của Ai Cập sa sút. Trong các cuộc xung đột trước đây, Ai Cập có vai trò rất mạnh vì có mối quan hệ chặt chẽ với cả hai bên. Nhưng hiện nay, Qatar và Mỹ cũng là những nhà trung gian rất tích cực, khiến cán cân có phần thay đổi. Lại nữa, khó có bêntrung gian nào có thể “ép” các bên nhượng bộ. Trung gian chỉ có thể thúc đẩy đối thoại, không thể buộc các bên phải đầu hàng nhau.
Một số nhà quan sát cho rằng, các cuộc đàm phán do Ai Cập chủ trì thời gian qua vẫn mang tính “tình huống”, chưa có một lộ trình hòa bình dài hạn và rõ ràng, điều cần thiết để tạo niềm tin cho các bên.
Trong cái mớ bùng nhừng ấy, Israel có trách nhiệm như thế nào để “mở đường máu” cho một nền hòa bình bền vững ở Gaza? Chỉ có thể trả lời, vấn đề quan trọng nhất là chấp nhận đàm phán nghiêm túc với điều kiện nhân đạo rõ ràng, trên nền tảng tôn trọng người dân Palestine. Tel Aviv cần thể hiện thiện chí thực sự trong việc ngừng bắn, không chỉ vì mục tiêu chiến thuật (giải cứu con tin) mà còn vì mục tiêu nhân đạo lâu dài.
Một nền hòa bình thực sự không thể đến nếu Israel luôn coi Hamas là “lực lượng khủng bố” mà bỏ qua tiếng kêu than của hàng triệu người dân Gaza đang sống trong đau khổ, nghèo đói, mất mát. Tel Aviv cần chấp nhận một lộ trình chính trị để người Palestine có quyền tự quyết thực sự. Hợp tác với các tổ chức quốc tế để tái thiết Gaza thay vì tiếp tục các cuộc không kích định kỳ. Vẫn biết Israel có lý do để lo ngại về an ninh, đặc biệt là sau vụ tấn công ngày 7/10/2023. Nhưng nếu mọi chính sách chỉ đặt nặng yếu tố an ninh mà bỏ qua nhân quyền và luật pháp quốc tế, thì sẽ chỉ khiến mâu thuẫn kéo dài và thù hận tăng lên.
Israel giữ vai trò quyết định, nhưng Mỹ cũng phải chịu trách nhiệm khi Israel là đồng minh lâu năm, luôn được Mỹ hậu thuẫn. Đây là một điểm then chốt trong tranh luận quốc tế hiện nay. Nhiều người, kể cả tại Mỹ, cũng đã nêu câu hỏi: Liệu Washington có đang quá thiên vị, tiếp tay cho một chính sách “ngạo mạn”, bất chấp luật pháp quốc tế?
Washington không thể đứng ngoài quan sát, bởi vì trách nhiệm bởi vì Mỹ là nhà tài trợ và hậu thuẫn lớn nhất của Israel. Mỗi năm, Mỹ viện trợ quân sự cho Israel hơn 3,8 tỷ USD, phần lớn là vũ khí tối tân. Trong cuộc chiến Gaza, nhiều loại vũ khí gây tranh cãi (như bom phá hầm sâu, tên lửa dẫn đường chính xác) được cho là do Mỹ cung cấp. Khi Israel dùng những vũ khí đó để tấn công vào các khu dân cư đông đúc, Mỹ không thể phủi tay.
Chính sách “bảo vệ đồng minh bằng mọi giá” của Mỹ đã gây mất cân bằng nghiêm trọng. Chính Mỹ tại Liên hợp quốc đã liên tục phủ quyết các nghị quyết kêu gọi ngừng bắn nhân đạo ở Gaza. Mỹ cao giọng lên án các hành vi của Hamas nhưng lại rất nhẹ giọng hoặc im lặng khi nói đến hàng vạn dân thường Palestine thiệt mạng. Điều đó khiến cộng đồng quốc tế cho rằng Mỹ thiếu công bằng, tiếp tay cho Israel hành động vượt giới hạn.
Không còn nghi ngờ gì nữa, Mỹ không nhất thiết phải “bỏ rơi Israel”, nhưng cần dùng ảnh hưởng của mình để thúc đẩy đối thoại, chứ không chỉ “tiếp tế bom đạn”. Mỹ phải thay đổi vai trò của mình, từ “người bảo kê” sang “người hòa giải có trách nhiệm”.
Có lẽ Tổng thống Đonald Trump đã thấy rõ điều đó. Ông và chính phủ của mình gần đây có phần “mềm mỏng” hơn khi gọi tình hình ở Gaza là “thảm họa nhân đạo”; yêu cầu Israel “phải làm nhiều hơn để bảo vệ dân thường”. Mỹ cũng tăng viện trợ nhân đạo và lập cầu hàng không thả hàng cứu trợ xuống Gaza. Bộ Ngoại giao Mỹ bị rò rỉ nội dung nội bộ cho thấy nhiều nhà ngoại giao bất mãn với chính sách thiên vị Israel.
Tuy nhiên, hành động cụ thể vẫn rất… dè dặt. Và rồi, vũ khí vẫn tiếp tục được chuyển cho Israel khi Mỹ phê duyệt thêm hàng trăm triệu USD viện trợ vũ khí. Và rồi những lời kêu gọi đều mang tính “khuyên nhủ”, không có ràng buộc pháp lý hay đòn bẩy thực tế. Những lời lẽ nhân đạo không thể che đậy sự tiếp tục hỗ trợ quân sự.
Lúc này cộng đồng quốc tế cần làm gì để gây đủ áp lực biến “lời nói” của Mỹ thành “hành động” thực sự? Và nếu như Mỹ không thay đổi thái độ, liệu có bên nào khác có thể lấp được khoảng trống của một người hòa giải trung thực? Liên hợp quốc, EU hay thậm chí là Trung Quốc có thể gánh trách nhiệm lớn lao này?
H.Đ