Cách đây đúng 50 năm, vào những ngày nửa cuối tháng 4/1975, cùng với năm cánh quân tiến về giải phóng Sài Gòn, trên hướng Biển Đông, lực lượng Hải quân Nhân dân Việt Nam đã tổ chức một chiến dịch quân sự, giải phóng toàn bộ quần đảo Trường Sa và các đảo miền duyên hải Nam Trung Bộ và Nam Bộ.
Chiến dịch tuy có quy mô không lớn như trên đất liền, nhưng được coi như là “cánh quân thứ sáu”, hòa cùng với năm cánh quân Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đầy hy sinh gian khổ nhưng vô cùng anh dũng của dân tộc ta. Thời gian đã lùi xa, nhưng ý nghĩa lịch sử của chiến dịch này vẫn chói sáng như ánh bình minh trên Biển Đông đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc hiện nay cũng như trong tương lai.

Giải phóng Trường Sa – “sự kiện đặc biệt” góp phần vào thắng lợi của Đại thắng mùa Xuân năm 1975
Quần đảo Trường Sa có trên 100 đảo lớn nhỏ, bãi đá và bãi san hô ngầm, với diện tích khoảng 180.000 km2 nằm ở giữa Biển Đông, thuộc chủ quyền của Việt Nam. Thời điểm cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, quân đội Việt Nam Cộng hòa đóng giữ 5 đảo, gồm: Nam Yết, Trường Sa, Sơn Ca, Sinh Tồn và Song Tử Tây. Đảo Nam Yết là nơi chúng đặt Sở chỉ huy trung tâm. Tổng quân số của quân đội Việt Nam Cộng hòa trên các đảo khoảng 160 người, thuộc Tiểu đoàn 371, địa phương quân Phước Tuy.
Khi cục diện chiến tranh có sự chuyển biến mau lẹ theo hướng ngày càng có lợi cho cách mạng, từ ngày 30/9 – 8/10/1974, Đảng ta đã triệu tập Hội nghị Bộ Chính trị hạ quyết tâm chiến lược: “Động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy cuối cùng, giải phóng hoàn toàn miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thống nhất nước nhà”.
Sau Hội nghị trên, Bộ Tư lệnh Hải quân Nhân dân Việt Nam và một số tướng lĩnh đã đề đạt với Đại tướng Võ Nguyên Giáp kế hoạch giải phóng Trường Sa, Đại tướng đồng ý ngay vì đây là phần lãnh thổ thiêng liêng của đất nước nên giải phóng miền Nam không thể không giải phóng phần lãnh thổ này.
Cuối năm 1974, đầu năm 1975, địch đã suy yếu rõ rệt trên mọi hướng chiến trường, trong đó có cả hướng biển. Đặc biệt, sau chiến thắng Ban Mê Thuật (24/3/1975), nhận thấy thời điểm thuận lợi để giải phóng các đảo trên quần đảo Trường Sa do quân đội Việt Nam Cộng hòa đang chiếm giữ đã tới, Quân uỷ Trung ương kiến nghị với Bộ Chính trị: “Vừa chuẩn bị cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng, vừa tiến hành giải phóng các đảo và quần đảo quân ngụy đang chiếm giữ”. Kiến nghị này đã được ghi vào Nghị quyết Bộ Chính trị ngày 25/3/1975. Sau này, trong cuốn hồi ký “Tổng hành dinh trong mùa xuân toàn thắng” của mình, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã phân tích rất sâu sắc về sự kiện này và cho biết, việc xác định chủ trương giải phóng Trường Sa là “một sự kiện đặc biệt đã diễn ra ngoài kế hoạch chiến lược ban đầu”.
Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị, ngày 30/3/1975, Quân ủy Trung ương gửi điện cho chỉ huy, lãnh đạo Quân khu 5: “Thường vụ giao cho Khu ủy và Bộ Tư lệnh B1 nhiệm vụ nghiên cứu, chỉ đạo thực hiện gấp rút, nhằm thời cơ thuận lợi nhất, đánh chiếm các đảo hiện do quân ngụy miền Nam chiếm đóng thuộc quần đảo Trường Sa”.
Sau khi Huế và Đà Nẵng được giải phóng, những điều kiện và thời cơ để tổ chức giải phóng các đảo, quần đảo trên vùng biển Việt Nam đã xuất hiện, cần phải kịp thời hành động ngay. Chiều ngày 04/4/1975, Quân ủy Trung ương đã chỉ thị: “Nghiên cứu và chỉ đạo thực hiện gấp rút, nhằm thời cơ thuận lợi nhanh nhất, đánh chiếm các đảo do quân ngụy miền Nam đang chiếm đóng ở quần đảo Trường Sa, không cho bất cứ kẻ nào xâm chiếm các nơi đó”, nhấn mạnh: “Đây là nhiệm vụ rất quan trọng”. Cả Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lê Duẩn và Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp lúc đó đều thống nhất: Phải khẩn trương giải phóng Trường Sa ngay vì nếu để chậm thì quân đội “nước ngoài” sẽ xâm chiếm, tình hình sẽ vô cùng phức tạp.
Trước yêu cầu gấp rút, khẩn trương của Quân ủy Trung ương, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 đã phối hợp với Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân, nhanh chóng tổ chức lực lượng thực hiện nhiệm vụ triển khai tổ chức chiến đấu, giải phóng các đảo trên quần đảo Trường Sa theo phương án đánh chiếm từng đảo.
Ngày 09/4/1975, sau khi nhận được báo cáo của Cục Quân báo, Bộ Tổng Tham mưu về việc địch có biểu hiện rút quân khỏi các đảo trên Biển Đông, Quân ủy Trung ương liền điện “tối khẩn” cho lãnh đạo Quân khu 5 và Quân chủng Hải quân: “Có tin, quân ngụy chuẩn bị rút khỏi đảo Trường Sa. Các anh cho kiểm tra lại ngay và chỉ thị cho lực lượng ta hành động kịp thời theo phương án đã định. Nếu để chậm, có thể quân nước ngoài chiếm trước, vì hiện nay một số nước ngoài đang có ý đồ xâm chiếm”.
Thực hiện “quân lệnh” trên, 4 giờ sáng ngày 11/4/1975, các tàu vận tải 673, 674, 675 chở lực lượng Đoàn C75 bí mật rời quân cảng Đà Nẵng ra đánh chiếm các đảo ở Trường Sa với phương châm tác chiến “bí mật, bất ngờ”.
Ngày 13/4/1975, sau khi nhận được kế hoạch đánh chiếm các đảo gửi về Tổng hành dinh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ đạo: “Thời cơ cụ thể đánh chiếm là: Nếu địch đã rút toàn bộ hoặc rút đại bộ phận thì đánh chiếm ngay và nếu quân nước ngoài đánh chiếm trước thì đánh chiếm lại; nếu địch mới có triệu chứng rút hoặc bắt đầu rút thì theo dõi, kịp thời đánh chiếm khi địch rút đại bộ phận; khi tình hình chung của địch nguy khốn, nhất là tình hình địch ở trọng điểm, thì đánh chiếm ngay”.
Đúng 4 giờ 30 phút sáng ngày 14/4/1975, lực lượng ta đổ bộ lên đảo Song Tử Tây và chủ động khai hỏa bằng loạt đạn DKZ. Địch chống trả, nhưng hỏa lực của ta đã dội lửa, hỗ trợ kịp thời cho đặc công, bộ binh xông lên đánh chiếm mục tiêu. Sau 30 phút, toàn bộ quân địch trên đảo bị tiêu diệt và bắt sống, lá cờ giải phóng đầu tiên tung bay phấp phới trên cột cờ đảo Song Tử Tây.
Tiếp tục hành trình giải phóng các đảo còn lại, rạng sáng ngày 25/4/1975, các mũi quân của ta bí mật đổ bộ và tiến công đảo Sơn Ca. Địch bắn trả rời rạc, rồi nhanh chóng bị tiêu diệt và bắt sống toàn bộ. Cùng lúc, lực lượng trinh sát kỹ thuật của ta báo tin, địch trên đất liền đang hết sức nguy khốn, chúng buộc phải rút quân khỏi các đảo còn lại ở Trường Sa. Nhận được tin này, các lực lượng Đoàn C75 khẩn trương đổ bộ đánh chiếm các đảo: 11 giờ 30 phút ngày 27/4/1975, giải phóng đảo Nam Yết; 10 giờ 30 phút ngày 28/4/1975, giải phóng đảo Sinh Tồn và An Bang; 9 giờ 30 phút ngày 29/4/1975, giải phóng đảo Trường Sa Lớn. Cùng với đó, Hải quân Nhân dân Việt Nam tiếp tục chiếm giữ các đảo, như Hòn Sập (sau này đặt tên đảo Phan Vinh), Trường Sa Đông (Đá Giữa), Sinh Tồn Đông, Bãi Thuyền Chài và một số đảo, đá khác thuộc quần đảo Trường Sa.
Như vậy, chỉ trong khoảng nửa tháng (từ 14 – 29/4/1975), với phương châm “thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”, trên hướng biển, Đoàn C75 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, giải phóng toàn bộ các đảo do quân ngụy Sài Gòn chiếm giữ ở quần đảo Trường Sa – phần hải đảo thiêng liêng thuộc chủ quyền của Việt Nam.
aGiá trị lịch sử to lớn và những bài học kinh nghiệm quý báu của Chiến dịch giải phóng Trường Sa đối với công cuộc bảo vệ chủ quyền biển, đảo hiện nay và tương lai
Trước hết, cần phải khẳng định rằng, thắng lợi của chiến dịch giải phóng Trường Sa là sự tiếp nối truyền thống, ý chí và quyết tâm cao độ không gì lay chuyển nổi của dân tộc ta trong việc giải phóng, bảo vệ từng tấc đất thuộc chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc trong mọi hoàn cảnh, trước bất cứ kẻ thù xâm lược nào. Việc giải phóng các đảo từ tay quân đội Việt Nam Cộng hòa trên quần đảo Trường Sa năm 1975 không chỉ thu hồi lại chủ quyền từ tay những kẻ bán nước, mà còn chứng tỏ rằng, Việt Nam chẳng những có đầy đủ cơ sở pháp lý, mà đã liên tục có mặt trên quần đảo này chí ít là từ thế kỷ 17; là quốc gia duy nhất đã chiếm hữu thật sự và quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa một cách liên tục, chính đáng, phù hợp với các quy định của luật pháp quốc tế.
Giải phóng quần đảo Trường Sa còn có ý nghĩa vô cùng quan trọng là kịp thời ngăn chặn âm mưu đánh chiếm đảo của một số quốc gia trong khu vực, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của đất nước. Thực tế diễn ra vào thời điểm đó cho thấy, ngay trong ngày 29/4/1975, một số tàu “nước ngoài” đã tiến vào gần đảo Trường Sa để “thăm dò” tình hình, nhưng khi thấy cờ Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tung bay trên các đảo thì họ lùi ra xa. Nếu ta không kịp thời giải phóng các đảo, quân đội “nước ngoài” sẽ xâm chiếm, thì tình hình sẽ vô cùng phức tạp, không chỉ ở thời điểm đó mà còn cả sau này.
Thứ hai, chiến dịch giải phóng Trường Sa diễn ra trong bối cảnh cả nước đang tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy với tinh thần “một ngày bằng 20 năm”, nên chiến công xuất sắc trên hướng biển đã góp phần vào thắng lợi chung của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kéo dài 21 năm của dân tộc. Chiến công này đã tô thắm, góp phần làm rạng rỡ hơn trang sử vàng về truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta.
Thứ ba, chiến dịch đã thể hiện ý thức tuyệt đối chấp hành mệnh lệnh, tinh thần khắc phục khó khăn, sự mưu trí, dũng cảm và tinh thần chiến đấu quả cảm của Quân đội Nhân dân Việt Nam, đặc biệt là lực lượng Hải quân. Bởi, lực lượng tham gia chiến dịch phải vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, do: 1/ Quần đảo Trường Sa quá rộng lớn, các đảo xa nhau, xa đất liền và hậu phương; 2/ Lực lượng đặc công trước đây chỉ quen đánh tàu, chưa có kinh nghiệm đánh chiếm căn cứ, cứ điểm, nhất là đảo ở biển, và cũng chưa từng đến các đảo; 3/ Lực lượng hải quân của Quân đội Việt Nam Cộng hòa lúc bấy giờ còn khá mạnh, khả năng tái chiếm cao. Trong khi đó, lực lượng của ta lại thiếu phương tiện, trang bị nhỏ và ít, chưa quen thuộc địa hình. Thế nhưng, trong quá trình chiến đấu, lực lượng đặc công ta đã hành động rất mưu trí, sáng tạo, quả cảm, quyết đoán, đã triển khai cách đánh của riêng mình, đó là “trinh sát đến đâu đánh đến đó”; bí mật tiếp cận đảo, nhanh chóng đổ bộ vào thời điểm hình thái thủy văn thuận lợi, bất ngờ đánh chiếm mục tiêu, tranh thủ thời cơ có lợi nhất để giải phóng đảo, kiên quyết không để lực lượng nào khác đến chiếm đảo trước ta. Qua đó, tô thắm hơn truyền thống hào hùng của Hải quân Nhân dân Việt Nam, tạo nền tảng chính trị, tinh thần vững chắc cho lực lượng này trong công cuộc bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong thời kỳ mới.
Thứ tư, ta không chỉ thu hồi, bảo vệ chủ quyền, mà xét về lâu dài, thắng lợi của chiến dịch này còn khẳng định vững chắc cho yêu sách lãnh thổ hợp pháp của Việt Nam ở Biển Đông, giúp Việt Nam duy trì sự hiện diện, củng cố vị thế trong các cuộc đàm phán sau này.
Năm mươi năm đã trôi qua, nhìn lại chiến dịch giải phóng Trường Sa năm 1975 cho thấy, thắng lợi của chiến dịch trước hết là thắng lợi của đường lối lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng, trực tiếp là Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng Tư lệnh và Quân chủng Hải quân trên mũi tiến công hướng biển. Tất cả lực lượng tham gia vào chiến dịch, từ những người lãnh đạo cao nhất của Đảng, Quân ủy Trung ương, đến những chiến sỹ trực tiếp cầm súng chiến đấu hay những người làm công tác phục vụ, đã thể hiện khát vọng cháy bỏng giải phóng quần đảo Trường Sa, thống nhất đất nước, góp phần tạo nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975. Hiện nay, sau gần bốn mươi năm đổi mới, đất nước ta nói chung, quần đảo Trường Sa nói riêng đang thay da đổi thịt từng ngày, đang phát triển với nhiều thành tựu to lớn. Nhưng, bên cạnh những thuận lợi, thành công, tình hình an ninh trên Biển Đông những năm gần đây vẫn diễn biến rất phức tạp, khó lường, có thời điểm trở thành “điểm nóng” ở khu vực. Nhiều hành động phi pháp của các thế lực “bên ngoài” đã và đang đe dọa đến chủ quyền, sự phát triển của đất nước, đến môi trường hòa bình, ổn định trong khu vực. Vì thế, hơn lúc nào hết, việc phát huy những giá trị lịch sử to lớn và vận dụng sáng tạo những bài học kinh nghiệm quý báu từ chiến thắng của chiến dịch giải phóng Trường Sa năm 1975 vào sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo hiện nay và trong tương lai là rất cần thiết. Trong đó, điều quan trọng là cần phải có tầm nhìn chiến lược hơn nữa trong việc giữ gìn, bảo vệ vững chắc các thực thể đang thuộc quyền nắm giữ và quản lý của ta ở Trường Sa. Xây dựng đất nước ta vững mặt về mọi mặt cả trên bờ lẫn trên biển, làm cho các thế lực “bên ngoài” không có cơ hội và không dám nhòm ngó, xâm chiếm. Tiếp tục phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường tiềm lực quốc phòng – an ninh, nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh với các hành động xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và lợi ích trên biển của Việt Nam bằng các biện pháp hòa bình, dựa trên cơ sở của luật pháp quốc tế. Là một quốc gia độc lập, Việt Nam không “chọn bên” hay “chọn phe”, mà chọn chính nghĩa, sự công bằng, công lý và lẽ phải trên cơ sở các nguyên tắc của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc; bình đẳng, cùng có lợi, cùng thắng trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Đồng thời, phải luôn tỉnh táo, nêu cao tinh thần cảnh giác trước các âm mưu, ý đồ của các thế lực bên ngoài đối với Biển Đông; vận dụng sáng tạo phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, bình tĩnh trong xử lý các tình huống trên biển, không để nước ngoài tạo cớ, gây ra xung đột để can thiệp. Tiếp tục xây dựng và phát huy cao hơn nữa ý chí, quyết tâm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền lãnh thổ quốc gia – dân tộc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để đưa đất nước tiến nhanh, tiến vững chắc trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển của dân tộc.