Saturday, December 6, 2025
Trang chủGóc nhìn mớiNgoại giao chiến lược, “màu sắc Donald Trump”

Ngoại giao chiến lược, “màu sắc Donald Trump”

Ngoại giao chiến lược là cách tiếp cận ngoại giao dựa trên việc sử dụng các công cụ chính trị, kinh tế, quân sự, và ngoại giao để đạt được các mục tiêu dài hạn của quốc gia, thường liên quan đến việc củng cố vị thế chiến lược trên trường quốc tế.

Trở lại nắm quyền vào tháng 1/2025, Donald Trump phủ lên nền ngoại giao Mỹ màu sắc riêng biệt mang đậm dấu ấn cá nhân. Ông đã khơi mào những tranh luận gay gắt về vai trò của ngoại giao trong chính sách đối ngoại Mỹ. Đặc biệt ông đã khởi động các sáng kiến ngoại giao táo bạo với hai đối thủ chính của Mỹ là Nga và Trung Quốc. Ngồi ghế cao nhất Nhà Trắng chưa lâu Trump đã tiến hành đàm phán với Tổng thống Nga V.Putin với tham vọng chấm dứt xung đột tại Ukraine.

Còn đối với Trung Quốc, Trump thân tình bàn với “người bạn quý mến”- Chủ tịch Tập Cận Bình, về việc phối hợp tổ chức một hội nghị thượng đỉnh thảo luận các vấn đề thương mại, đầu tư, và kiểm soát vũ khí hạt nhân. Dịp này chính quyền Trump tuyên bố ý định tái đàm phán sự cân bằng lợi ích và gánh nặng trong các liên minh, yêu cầu châu Âu tăng chi tiêu quốc phòng (hiện đạt gần 1 nghìn tỷ USD) và đàm phán lại các thỏa thuận thương mại với Canada.

Bản chất của những chủ trương này không có gì mới. Đó chẳng qua chỉ là sự trở lại của ngoại giao chiến lược theo hình thức cổ điển. Hàng nghìn năm trước, các cường quốc đã sử dụng ngoại giao để ngăn chặn xung đột, tuyển mộ đối tác mới, và chia rẽ các liên minh đối thủ. Thí dụ, Thủ tướng Đức Otto von Bismarck vào thế kỷ 19 đã dùng các thỏa thuận với Áo, Nga, và Anh để cô lập Pháp, tránh một cuộc chiến hai mặt trận.

Ở Mỹ, các đời Tổng thống Nixon và Kissinger từng cải thiện quan hệ với Bắc Kinh để tập trung đối phó Moscow trong những năm 1970. Hiện tại, Trump đang tìm cách hòa hoãn với Nga, để dành nguồn lực đối đầu với Trung Quốc, đối thủ lớn nhất trong lịch sử Mỹ. Chẳng hạn, ông thuyết phục Nga và Ukraine tạm dừng các cuộc tấn công vào cơ sở hạ tầng năng lượng của nhau, sử dụng các biện pháp trừng phạt, hỗ trợ quân sự, và tài sản Nga bị tịch thu để gây áp lực buộc Moscow nhượng bộ trong các cuộc đàm phán về Ukraine.

Với Trung Quốc, Trump có “bài” khác, sử dụng thuế quan, tăng sản lượng dầu từ Ả Rập Xê Út. Mỹ cũng tăng cường hiện diện quân sự ở Ấn Độ-Thái Bình Dương để tích lũy đòn bẩy, chuẩn bị cho các thỏa thuận về cân bằng thương mại.

Ngoại giao chiến lược rõ ràng sẽ mang lại nhiều cơ hội để củng cố vị thế của Mỹ. Với Nga, hòa hoãn có thể làm phức tạp mối quan hệ Moscow-Bắc Kinh, khai thác sự phụ thuộc ngày càng tăng của Nga vào Trung Quốc ở các lĩnh vực tài chính, công nghệ, và cơ sở hạ tầng. Kể từ khi xung đột tại Ukraine bắt đầu, Nga đã trở nên phụ thuộc vào Trung Quốc ở Trung Á và Viễn Đông, nơi Bắc Kinh kiểm soát cổ phần lớn trong cơ sở hạ tầng Siberia và các cảng biển Nga.

Về thái độ cá nhân, Trump thường tránh chỉ trích trực tiếp Putin, từng gọi ông là người “mạnh mẽ” và nhiều lần bày tỏ ý muốn cải thiện quan hệ. Thế nhưng, trên thực tế, chính quyền Trump vẫn trừng phạt Nga vì can thiệp bầu cử Mỹ, tấn công mạng, và can thiệp vào Ukraine. Chiến lược của Trump với Nga luôn có tính hai mặt, cá nhân tỏ ra mềm mỏng với Putin, nhưng chính sách vẫn theo hướng kiềm chế ảnh hưởng Nga.

Trong việc kiểm soát vũ khí, Trump có thể đề xuất một khuôn khổ mới với Nga, tận dụng sự suy yếu của Moscow sau xung đột tại Ukraine. Do hao mòn lực lượng thông thường, Nga có thể phải chuyển ngân sách từ kho vũ khí hạt nhân tầm xa, tạo cơ hội cho một thỏa thuận tương tự theo kiểu như Reagan và Gorbachev đã làm vào những năm 1980.

Một hiệp định như vậy sẽ buộc Nga chấp nhận rủi ro trong kho vũ khí chiến lược, giảm yêu cầu răn đe hai đối thủ của Mỹ và cho phép Washington tập trung vào sự phát triển hạt nhân của Trung Quốc. Thỏa thuận này cũng có thể tạo khoảng cách giữa Trung Quốc và Nga, cản trở mong muốn của Bắc Kinh trong việc thấy Mỹ bị kẹt trong một cuộc chạy đua vũ trang ở châu Âu.

Với Trung Quốc, Trump có thể sử dụng đòn bẩy từ thuế quan, tăng cường hiện diện quân sự ở Ấn Độ-Thái Bình Dương, và các liên minh với Ấn Độ và Nhật Bản để đàm phán một sự cân bằng thương mại có lợi hơn. Trump áp thuế hàng trăm tỷ USD lên hàng hóa Trung Quốc, nhằm gây áp lực buộc Trung Quốc phải thay đổi các hành vi mà Mỹ cho là không công bằng (như trợ cấp doanh nghiệp nhà nước, ép buộc chuyển giao công nghệ).

Để chống lại ảnh hưởng toàn cầu của Trung Quốc, Trump nỗ lực thuyết phục đồng minh không sử dụng công nghệ Huawei, phản đối sáng kiến “Vành đai & Con đường”.

Mỹ cũng có thể thử định giá lại tiền tệ, với một đồng nhân dân tệ mạnh hơn để hỗ trợ các giao dịch khu vực của Trung Quốc và một đồng đô la yếu hơn để thúc đẩy tái công nghiệp hóa nước này. Việc kéo Ấn Độ vào quỹ đạo Mỹ thông qua chuyển giao công nghệ và hợp tác quốc phòng sẽ hạn chế các lựa chọn quân sự của Trung Quốc, đặc biệt ở các khu vực tranh chấp như biên giới Ấn Độ-Trung Quốc hay Biển Đông.

Hơn nữa, Trump có thể học từ các tiền lệ lịch sử để tối ưu hóa ngoại giao chiến lược. Như Hồng y Richelieu từng trì hoãn chiến tranh với Tây Ban Nha để củng cố Pháp, Trump có thể dùng đàm phán để câu giờ, xây dựng sức mạnh kinh tế trong nước thông qua tăng sản xuất năng lượng, giảm thâm hụt, và bãi bỏ quy định. Tương tự, như Metternich dùng hệ thống Vienna để kéo dài vị thế cường quốc của Áo, Trump có thể xây dựng các liên minh khu vực ở châu Á để kiềm chế Trung Quốc mà không cần đối đầu trực tiếp.

Nói gọn lại, Washington sử dụng ngoại giao chiến lược bằng cách tận dụng đòn bẩy kinh tế với Trung Quốc, giữ khoảng cách ngoại giao nhưng không phá vỡ quan hệ với Nga, nhằm tạo thế đối trọng và ưu tiên lợi ích nước Mỹ. Nếu như cách tiếp cận ngoại giao của các đời Tổng thống Mỹ trước đây chủ yếu dựa vào đa phương, coi trọng liên minh, duy trì trật tự quốc tế, thì nay trong nhiệm kỳ 2.0, Trump chủ trương đơn phương, “Nước Mỹ trên hết”, ít coi trọng tổ chức quốc tế.

Với chính sách ngoại giao chiến lược mới, Mỹ sẽ chủ động tạo lại vị thế thương lượng mạnh mẽ, đặc biệt trong quan hệ với Trung Quốc. Qua đó làm lộ rõ điểm yếu hệ thống (chuỗi cung ứng phụ thuộc, rủi ro công nghệ), buộc các nước phải nhìn lại chiến lược dài hạn của mình.

Tuy nhiên, điều Tổng thống Trump luôn canh cánh là sẽ làm suy yếu lòng tin của đồng minh, khó xây dựng sự đồng thuận toàn cầu để kiềm chế các đối thủ lớn như Nga và Trung Quốc. Không ai không thừa nhận Mỹ vẫn là cường quốc hàng đầu, nhưng không còn ở vị thế “một mình một cõi” như sau Chiến tranh Lạnh. Thế giới ngày nay đang dần trở thành đa cực, trong đó Nga, Trung Quốc, EU, Ấn Độ và một số tổ chức khu vực đang định hình lại luật chơi.

Và nỗi lo của ông Trump không chỉ là chuyện ngoại giao mà là, liệu Mỹ có vĩ đại trở lại hay không? Thế giới đang dịch chuyển mạnh mẽ. “Thời kỳ nói” đã qua, bây giờ là “thời kỳ làm”.

H.Đ

RELATED ARTICLES

Tin mới